Tam Đảo | |
---|---|
Tam Đảo và sông Hồng | |
Độ cao | 1591 m |
Vị trí | |
Vị trí | Tam Đảo, Bình Xuyên, Phúc Yên (Vĩnh Phúc) Phổ Yên, Đại Từ (Thái Nguyên) Sơn Dương (Tuyên Quang) Sóc Sơn (Hà Nội) |
Tọa độ |
Dãy Tam Đảo là một dãy núi đá nằm ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, trải dài qua thành phố Hà Nội và các tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Đỉnh cao nhất của dãy núi, với độ cao 1.597 m, nằm ở biên giới giữa huyện Tam Đảo (Vĩnh Phúc) và huyện Đại Từ (Thái Nguyên).
Tên gọi
Tên gọi Tam Đảo (三島 | có nghĩa là Ba Đảo) xuất phát từ ba khối núi nổi bật nằm ở phần giữa dãy núi, nhô cao hơn phần còn lại khi nhìn từ phía nam. Dân gian đặt tên ba đỉnh núi này là Thạch Bàn, Thiên Thị, và Phù Nghĩa. Mặc dù không phải là ba đỉnh cao nhất, chúng nổi bật và đặc trưng nhất, dễ thấy từ nội thành Hà Nội vào những ngày trời quang.
Đặc điểm địa chất và thủy văn
Dãy Tam Đảo hình thành cách đây khoảng 230 triệu năm vào giữa kỷ Trias, nhờ hoạt động của núi lửa phun trào dung nham, tạo thành nhiều lớp đá chồng lên nhau. Các loại đá chính ở đây bao gồm Riolit pocfia, penzit, và các loại tuf liên quan.
Dãy núi kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, với chiều dài khoảng 80 km và rộng từ 10 đến 15 km, từ thị trấn Sơn Dương, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) đến xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn (Hà Nội).
Với địa hình dốc đứng, Tam Đảo có nhiều suối và thác nước, trong đó Thác Bạc cao 50 m, nước đổ xuống tạo bọt trắng ngay cả trong mùa khô. Địa hình dốc cũng làm cho hệ thực vật nơi đây đa dạng và thay đổi theo độ cao. Nhiều loại rau quả ôn đới được trồng và cung cấp cho các vùng lân cận. Càng lên cao, cây lá kim ngày càng phổ biến. Loài cá cóc là động vật đặc hữu của Tam Đảo. Vườn quốc gia Tam Đảo, rộng 36.883 ha, nằm hoàn toàn trong dãy núi này. Dãy núi cũng có nhiều khoáng sản, với thiếc là loại quan trọng nhất.
Khí hậu và môi trường
Do địa hình phức tạp, đặc biệt là sự phân cách giữa vùng núi cao và đồng bằng thấp ven sông, khí hậu của huyện Tam Đảo được chia thành hai tiểu vùng rõ rệt. Các tiểu vùng này không trùng với địa giới hành chính cấp xã, cụ thể là:
Tiểu vùng miền núi, bao gồm toàn bộ khu vực núi Tam Đảo thuộc các xã Minh Quang, Hồ Sơn, Tam Quan, Đại Đình, Đạo Trù và trị trấn Tam Đảo, có khí hậu mát mẻ với nhiệt độ trung bình từ 18 - 19°C, độ ẩm cao và thường xuyên có sương mù, tạo nên cảnh quan tuyệt đẹp. Khí hậu ở đây có ảnh hưởng của khí hậu ôn đới, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp ôn đới và hình thành các khu nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái vào mùa hè.
Tiểu vùng khí hậu vùng thấp, bao gồm các đồng bằng của các xã Minh Quang, Hồ Sơn, Tam Quan, Đại Đình, Đạo Trù và toàn bộ các xã còn lại, có đặc điểm khí hậu gió mùa nội chí tuyến Đông Bắc Bắc Bộ. Nhiệt độ trung bình ở mức 22 - 23°C, độ ẩm khoảng 85-86%, lượng mưa trung bình 2.570 mm/năm, chủ yếu tập trung từ tháng 6 đến tháng 9.
Tam Đảo nằm trong khu vực trung du và miền núi phía Bắc, chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Mưa bão có tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống. Chế độ gió theo mùa với gió Đông Nam chủ đạo vào mùa hè và gió mùa Đông Bắc chủ đạo vào mùa đông.
Tam Đảo trong văn hóa
Theo ghi chép trong sách An Nam chí lược từ thế kỷ 14, núi Tam Đảo thuộc phủ Tuyên Quang, nằm ở huyện Tam Dương, với ba đỉnh núi cao vút, cùng với núi Tản Viên tạo thành một cặp núi nổi bật, được xem là danh sơn của Việt Nam.
Nếu lấy núi Nghĩa Lĩnh (cố đô của Văn Lang thời kỳ tiền sử) làm trung tâm, thì núi Ba Vì và Tam Đảo là hai điểm đối xứng tạo nên 'Thế tay ngai' theo phong thủy.
- Điểm cao nhất là núi Ba Vì
- Thứ ba là Tam Đảo, thứ nhì là Độc Tôn.
Vào thế kỷ 18, Lê Quý Đôn đã ghi chép rằng núi Tam Đảo nằm trong địa phận hai xã Lan Đình và Sơn Đình, huyện Tam Dương. Dãy núi này kéo dài từ các đỉnh cao của xã Ký Phú, Huân Chu và Cát Nê thuộc huyện Phú Lương và Đại Từ ở Thái Nguyên. Ba đỉnh núi cao vút với đỉnh núi Kim Thiên đứng chót vót, bao quanh là các vách đá dựng đứng và khu rừng xanh tươi. Phía chân núi, có khe Giải Oan, là nguồn của sông Sơn Tang, chảy qua Hương Canh và hợp lưu vào sông Nguyệt Đức.
Dưới đáy nước xanh thẳm như chàm, không thấy đáy, sườn núi có chùa Tây Thiên cổ kính, bao quanh là tre xanh và thông tốt. Trên đỉnh núi, chùa Đồng Cổ nằm ở độ cao, việc leo lên và xuống mất khoảng hai ngày. Từ khe Giải Oan, đi lên núi sẽ đến hồ sen với nước xanh biếc và đá lạ, sen đỏ nở quanh năm. Hai bên hồ, suối từ sườn núi chảy ra: bên trái là suối Bạc và bên phải là suối Vàng. Chùa Địa Ngục nằm bên phải, bên trong có suối chảy ra với nước màu vàng. Suối Vàng và suối Bạc hợp lưu trước hồ Sen, tiếp tục chảy xuống và hợp vào khe Giải Oan. Đi thêm hai dặm, bạn sẽ thấy đường bằng phẳng với các tòa đá đứng sừng sững và ba nền đất dài, tám tòa đá vuông giống như bát bộ kim cương. Tiếp tục leo lên, bạn sẽ đến chùa Đồng.
Các di tích lịch sử
Dãy núi Tam Đảo nổi bật với các di tích văn hóa và lịch sử như chùa Tây Thiên và đền Tây Thiên (hay còn gọi là Đền Mẫu) thờ Quốc Mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu. Theo truyền thuyết, Quốc Mẫu Tây Thiên được hình thành từ linh khí của núi rừng Tam Đảo. Vào đầu thế kỷ 20, người Pháp đã xây dựng một thị trấn nghỉ mát cho quan chức chính quyền đô hộ tại Tam Đảo, với 163 biệt thự kiến trúc châu Âu, mặc dù hiện nay một số đã xuống cấp. Tam Đảo hiện là điểm du lịch nổi tiếng ở miền Bắc.