Dàn ý chi tiết
1. Mở đầu
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm:
- Tác giả Y Phương: là nhà thơ dân tộc Tày. Thơ của ông đậm chất dân tộc, thể hiện đời sống tinh thần của người dân vùng núi.
- Bài thơ “Nói với con”: tình cảm cha mẹ dành cho con, hy vọng con sẽ tiếp nối và phát huy những giá trị đẹp của quê hương.
2. Thân bài
a, Hình ảnh của đứa trẻ trong tình yêu thương của cha mẹ
- Hình ảnh đứa trẻ bước đi được miêu tả giản dị, chân thật: Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ.
- Tiếng nói, tiếng cười: hình ảnh của một gia đình hạnh phúc, đầm ấm.
→ Tình cha mẹ với con là vô bờ bến, từng bước theo dõi con trong những bước đầu tiên của cuộc đời.
b, Lời cha mẹ dạy con về đạo đức sống
- Sống vui vẻ, thân thiện, biết ơn:
+ Hồn nhiên, yêu đời, yêu lao động: cất cao hoa khi đan lơ bắt cá, luôn ca hát khi làm việc.
+ Tôn trọng tự nhiên, biết ơn tự nhiên: “Rừng cho hoa/ Con đường cho những tấm lòng”.
+ Con người sống gắn bó với tự nhiên, biết ơn mọi sự hy sinh của cha ông đời trước đã xây dựng quê hương, không ngại khó khăn: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói”.
- Sống kiên cường, không khuất phục trước khó khăn:
+ Mong con học được sự kiên cường của “người đồng mình”: vượt qua những khó khăn để nuôi dưỡng ý chí làm việc lớn.
- Sống có ích, xây dựng quê hương và ghi nhớ truyền thống, nguồn cội: con người xây dựng quê hương, tạo ra phong tục, chính quê hương là nơi lưu giữ những truyền thống ấy.
→ Cha mẹ mong con hãy “Sống như sông như suối”, luôn trôi chảy, phát triển, nhưng không quên những giá trị dân tộc.
c, Lời dạy dỗ con về bản lĩnh trong cuộc sống
+ Lời dạy cuối cùng cha mẹ muốn nói với con: “dù thô sơ da thịt” nhưng khi ra khỏi gia đình, tự lập trong cuộc sống thì “không bao giờ nhỏ bé”. Con người không phải máy móc, chỉ là thể xác thô sơ có thể chịu tổn thương, bệnh tật, nhưng phải sống kiên cường, không “nhỏ bé” trước cái xấu, cái bất công, không chấp nhận sống cúi đầu.
+ “Nghe con”: những lời cuối của cha mẹ, đầy tình yêu thương, hy vọng và lo lắng, mong con trưởng thành hạnh phúc, tự do, và có ích.
d, Nghệ thuật của bài thơ
- Thể thơ tự do, giọng thơ thân thiện, mộc mạc, trìu mến.
- Sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ đặc trưng của người dân vùng núi.
3. Kết bài
- Bài thơ chứa đựng tâm tư của cha mẹ, những lời dạy dỗ dành cho con. Thông qua những lời dạy, ta thấy sự tự hào với cuộc sống, truyền thống đẹp của quê hương.
- Bài thơ mang màu sắc tự do, mộc mạc của văn hóa dân tộc miền núi phía Bắc.
Bài văn ngắn mẫu số 1
Bài thơ có hai phần chính. Phần đầu thể hiện tình cảm gia đình, quê hương, đầm ấm, yên vui trong 11 câu thơ đầu. Phần tiếp theo thể hiện tình quê hương sâu sắc, truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người miền núi trong 17 câu thơ sau đó. Bài thơ mở ra với cảnh gia đình ấm cúng, đầy tiếng nói và tiếng cười:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Một ngôi nhà có cha và mẹ, con lớn lên trong tình thương yêu. Hơn nữa, con sinh ra, lớn lên trong tình yêu, trong vẻ đẹp của người đồng mình:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
Cảm xúc, suy nghĩ được diễn tả bằng hình ảnh. Tác giả đã sử dụng lối diễn đạt của người dân tộc miền núi để tạo ra hình ảnh thơ. Bằng cách diễn đạt như vậy, tác giả đã sáng tạo ra những hình ảnh vừa cụ thể vừa mang tính khái quát cao mà vẫn giàu chất thơ bay bổng về vẻ đẹp trong cuộc sống của người dân miền núi: Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát – Rừng cho hoa; và về truyền thống nghĩa tình, gắn bó, chia sẻ: Con đường cho những tấm lòng. Người cha muốn con thấy được vẻ đẹp của người đồng mình để yêu. Cách diễn đạt độc đáo đó cũng được thể hiện trong những hình ảnh đặc sắc trong những câu thơ tiếp theo:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Sống trong thung không chê thung nghèo đói.”
Thể thơ tự do, không theo khuôn định, phù hợp với cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ. Nhịp điệu lúc bay bổng, lúc nhẹ nhàng, lúc khúc chiết, rành rọt, lúc mạnh mẽ, sắc nhọn,… tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau trong những lời cha truyền thấm sang cho con. Ngôn ngữ thơ giản dị, hình ảnh thơ mộc mạc, cô đọng mà vẫn phong phú, sinh động. Quả đúng là một thứ “ngôn ngữ thổ cẩm” quyến rũ.
Nhà thơ Y Phương đã hiểu sâu và thấu hiểu được cái hồn cốt trong bản sắc truyền thống của người dân miền núi. Từ bài thơ này, người cha nói với con chính là lời truyền gửi thế hệ?
Bài văn ngắn mẫu số 2
Y Phương, một con người thuộc dân tộc Tày, là tác giả của bài thơ 'Nói với con'. Tên của bài thơ rất đơn giản, nhưng lời thơ và tinh thần thơ rất trong sáng. Bài thơ gồm hai mươi tám câu thơ tự do, với câu ngắn nhất chỉ có hai chữ, câu dài nhất là mười chữ, đa phần là những câu thơ bốn chữ, năm chữ; trong đó có những câu thơ trở nên như một khẩu ngữ, rất gợi và rất sâu sắc vì bao trùm tình cha, vì cách biểu hiện chân thành, mộc mạc.
Tôi nhớ lại tuổi thơ, nhớ giọng nói hiền lành của mẹ, nhớ về xứ Huế, và thật kỳ lạ, tôi nghĩ về Cao Bằng, 'nơi gạo trắng nước trong', nơi mà tôi chưa từng đặt chân đến. Thơ có hồn, có sức mạnh gợi nhớ và gợi thương như thế. 'Người đồng mình' đã gói gọn bao tình yêu, tự hào của Y Phương đối với 'nước non Cao Bằng', nơi mà tôi đã chôn rau cắt rốn của mình. Hãy nghe những vần thơ của anh:
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.”
Tôi như đang ngắm một bức tranh tứ bình có bốn hình ảnh: chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười của một đứa trẻ mới biết đi, mới biết nói. Lúc thì dựa vào lòng mẹ, lúc thì nắm lấy tay cha. Động từ 'bước tới' và 'chạm' được sử dụng khéo léo, làm nổi bật bức tranh về gia đình hạnh phúc: đôi vợ chồng trẻ cùng đứa con thơ đầu lòng.
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Vì sao không yêu?
Phải yêu nhiều, yêu lắm chứ!
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.”
Đan lờ đánh cá, dưới bàn tay người Tày, những nan nứa, nan tre, nan trúc đã trở thành 'nan hoa'. Vách nhà không chỉ làm bằng gỗ mà còn làm bằng 'cầu hát'. Rừng không chỉ cho nhiều gỗ quý, cho măng, cho sản vật quý giá mà còn 'cho hoa'. Con đường không chỉ để đi qua lại mà còn 'cho những tấm lòng' nhân hậu, bao dung, con đường tình nghĩa:
“Vượt lên gập ghềnh, xuống dốc núi,
Con đường tình nghĩa ai còn nhớ chăng?” (Ca dao)
Con đường tình nghĩa ấy được Y Phương thể hiện một cách sâu lắng, giản dị: Con đường cho những tấm lòng. Hạnh phúc ôm con vào lòng, nhìn con lớn lên, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ suy ngẫm về cội nguồn hạnh phúc:
“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
'Người đồng mình' không chỉ chăm chỉ và khéo léo, yêu đời và tài hoa mà còn mang đầy phẩm chất tốt đẹp, đáng 'thương lắm con ơi'. Trong những gian khó thử thách, bao niềm vui nỗi buồn cuộc đời, trải qua năm tháng, bà con quê hương, 'người đồng mình' đã rèn luyện, đã đúc kết chí khí, đã 'cao đo nỗi buồn – xa nuôi chí lớn ', nâng cao tâm thế đẹp.
Câu thơ bốn chữ, đối đối như câu tục ngữ. Đây là tinh thần sống cao quý, phương châm ứng xử cao đẹp của dân tộc Tày, của con người Việt Nam.
Phong cách sống tốt đẹp đó đã tạo nên chất thơ trong sáng, đáng yêu của Y Phương. Bản sắc dân tộc, tinh thần nhân văn đã hoà quyện vào hồn thơ của nhà thơ:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Không có ai nhỏ bé ở đâu con
Người đồng mình tự chăm sóc quê hương
Và quê hương làm nên phong tục.”
Cha 'nói với con' cũng là dạy con bài học đạo đức, làm người. Quê hương sau những năm chiến tranh, chưa giàu chưa đẹp, con phải biết gắn bó với quê hương: 'Không chê… không chê… không lo…'. Trước những thử thách khó khăn, con không được sống tầm thường, sống nhỏ bé. Phải lao động sáng tạo để xây dựng, để 'chăm sóc' quê hương:
“Dù đi đâu, cha vẫn mong con
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống dốc
Không lo gian khổ…”
Những ý nghĩa sâu sắc được diễn tả thông qua những ẩn dụ so sánh, những câu tục ngữ dân gian. Động từ 'sống' lặp lại ba lần đã khẳng định một tâm thế, một tinh thần, một cách tư duy… mà cha 'mong con' sẽ thừa hưởng. Lời thơ giản dị, chắc nịch mà sâu sắc, thấm đẫm.
Thông điệp cuối cùng 'nói với con' càng trở nên chân thành hơn. Cha nhắn con khi 'bước ra đi' phải luôn sống cao quý, không bao giờ chấp nhận tầm thường, 'nhỏ bé' trước mọi thử thách. Phải giữ vững bản sắc giản dị, mộc mạc của 'người lao động'. Hai từ 'nghe con' là cả một trái tim cha rộng lớn:
“Con ơi dù thô sơ da thịt
Bước đi
Không được nhỏ bé
Nghe con.”
Một cảnh tượng đầy cảm động đang diễn ra. Cha yêu thương nhìn con, vuốt ve đầu con. Đứa con cúi đầu nghe lời cha dặn. Y Phương đã tạo nên không khí gia đình ấm áp, tình cha con. Y Phương là một người cha rất yêu thương con. Anh là một người sống tình nghĩa và trung thành với quê hương. Thơ anh rất thơm ngát và chân thành.
Bài thơ “Nói với con” của Y Phương là sự kết tinh của kinh nghiệm sâu sắc từ ngàn đời, là dấu ấn của tình yêu mà tác giả muốn truyền đạt cho con trên hành trình trưởng thành. Bài thơ không chỉ có ý nghĩa với đứa con mà còn là một bài học quý giá cho thế hệ sau này.
Bài siêu ngắn Mẫu 3
Y Phương là một nhà thơ có tiếng nói rất đặc trưng của dân tộc Tày. Thơ ông là sự thể hiện chân thật, gần gũi và đầy tình yêu thương. Bài thơ 'Nói với con' là điển hình cho phong cách sáng tác đặc biệt của ông. Nó mang đến cho người đọc một tâm trạng gần gũi nhưng trang trọng và cao quý: Tình cha con. Đây là lời chia sẻ của một người cha dành cho con, là những điều mà cha muốn nói với con, để con hiểu.
'Nói với con' là lời thổ lộ, trò chuyện của người cha với con từ khi con còn trong bụng mẹ. Tâm trạng chủ đạo của bài thơ là tình yêu thương, sự chia sẻ và việc truyền thống những giá trị tốt đẹp của dân tộc cho con. Với thể thơ tự do, cảm xúc chân thành và giản dị, tình cảm đó trở nên ấm áp và thân thiết hơn. Y Phương đã mang đến cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống hàng ngày.
Những câu thơ đầu tiên như những lời kể chuyện trích ra từ trái tim cha gửi gắm con:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Con từ khi còn trong bụng đã được bao bọc, yêu thương trong vòng tay cha mẹ. Mỗi ngày, mỗi giờ con lớn lên là mỗi ngày, mỗi giờ cha mẹ mong chờ. Khi con bước vào cuộc sống, cha mẹ luôn ở bên con, chứng kiến và cổ vũ. Hình ảnh 'chân phải', 'chân trái', 'tiếng nói', 'tiếng cười' đơn giản nhưng gần gũi biết bao. Một không gian ấm áp và hạnh phúc bao phủ từng nhịp thơ. Cuộc sống quay vòng, tình yêu thương mà Y Phương dành cho con luôn chân thành và thiết tha như vậy. Ông đã khắc họa hình ảnh con từ khi còn nhỏ, gửi gắm những suy nghĩ về những ngày tháng đó.
Y Phương nhắc nhở người đọc về tình cảm sâu nặng của những người dân tộc luôn gắn bó với nhau:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Những con người dân tộc chất phác, bình dị, chăm chỉ và khéo léo trong mọi công việc. Cuộc sống của họ mỗi ngày leo núi, làm rẫy, bận rộn với nhiều công việc. Mặc dù cuộc sống khó khăn nhưng họ vẫn gắn bó thân thiết với nhau. Những từ 'đan', 'cài' không chỉ nói lên sự gắn bó mà còn nói lên tình cảm sâu sắc, khó phai nhạt của những con người ở đây. Tác giả đã gửi gắm trong lòng người đọc tình cảm và cảm xúc đích thực, cội nguồn xứ sở và người dân. Quê hương và những người dân ở đây là điều con phải ghi nhớ, biết ơn và trân trọng để trưởng thành và có ích cho xã hội.
Bài tham khảo Mẫu 1
Viết về tình cảm gia đình, niềm tự hào đối với quê hương và sự ước vọng của cha mẹ dành cho con cái, mong muốn con trưởng thành là một trong những chủ đề được đề cập nhiều trong văn học. Chúng ta thường thấy hình ảnh người mẹ ôm con lên rẫy hát ru con thấm đượm nghĩa tình cách mạng trong bài thơ 'Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ' của Nguyễn Khoa Điềm hay hình ảnh người mẹ đưa nôi hát ru con với lời ru ngọt ngào trong bài thơ 'Con cò' của Chế Lan Viên... Mỗi nhà thơ, bằng trái tim và trải nghiệm chân thành, đã diễn tả thật hay, độc đáo, mới mẻ về những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp ấy. Y Phương – nhà thơ dân tộc Tày, với phong cách thơ hồn nhiên, trong sáng, chân thật, giàu hình ảnh đã góp phần vào chủ đề đó qua bài thơ 'Nói với con' (1980). Bài thơ là lời tâm tình của người cha dành cho con với hi vọng người con sẽ tiếp nối, phát huy phẩm chất truyền thống cao đẹp, làm cho quê hương, dân tộc ngày càng vững mạnh hơn.
...
Bài tham khảo Mẫu 2
Nhà thơ Y Phương có tên thật là Hứa Vĩnh Sước, là người dân tộc Tày, sinh năm 1948; quê quán ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Ông gia nhập ngũ vào năm 1968, phục vụ trong quân đội cho đến năm 1981 trước khi chuyển sang làm việc tại Sở Văn hóa - Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1993, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng. Thơ của ông phản ánh tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sáng và có cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ sau tiếp nối xứng đáng và phát huy truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, của quê hương là một tình cảm cao quý của người Việt Nam suốt bao đời. Bài thơ Nói với con của Y Phương nằm trong dòng suối cảm hứng ấy nhưng nhà thơ có cách thể hiện riêng qua lời tâm tình, thông điệp của người cha đối với con. Vì vậy, bài thơ có giọng điệu chân thành, trìu mến.
Để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài thơ này, chúng ta cần tìm hiểu sơ lược về cách suy nghĩ và cách bày tỏ tình cảm của người dân miền núi. Đó là cách diễn đạt mộc mạc, hồn nhiên, thể hiện qua ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Tác giả Y Phương vận dụng một cách tinh tế lời ví von, so sánh thường thấy trong thơ của các dân tộc thiểu số để thể hiện chủ đề của bài thơ Nói với con.
Mượn lời cha tâm tình với con, nhà thơ nhắc nhở về cội nguồn của mỗi con người, qua đó bộc lộ niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ và phẩm chất tốt đẹp của dân tộc mình, quê hương mình. Bố cục bài thơ gồm hai đoạn. Đoạn thứ nhất: Từ đầu đến 'Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời': Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống nghèo khó của quê hương. Đoạn thứ hai: Phần còn lại: Lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc và truyền thống tốt đẹp của quê hương. Niềm ước mong chân thành là các con hãy kế tục xứng đáng truyền thống ấy.
Với bố cục như vậy, bài thơ đi từ tình cảm gia đình rồi mở rộng và nâng cao thành tình cảm quê hương, đất nước. Từ những kỷ niệm gần gũi, gắn bó với mỗi con người mà nâng lên thành lẽ sống chung. Chủ đề của bài thơ được tác giả dẫn dắt và thể hiện rất tự nhiên, mạch lạc, tuy đậm chất riêng tư nhưng vẫn có ý nghĩa tổng quát.
Tình yêu thương của cha mẹ, sự che chở của quê hương đối với con cái là vô bờ bến. Các con lớn lên từng ngày trong tình cảm thiêng liêng ấy. Ở bốn câu thơ đầu, bằng những hình ảnh đơn giản, Y Phương đã phản ánh sinh động không khí gia đình ấm cúng, đầm ấm:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.”
Cách thể hiện cảm nghĩ của nhà thơ thật độc đáo. Khi đứa con chập chững biết đi, từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng, và vui mừng đón nhận. Căn nhà luôn rộn rã tiếng nói, tiếng cười. Đứa con trưởng thành trong cuộc sống lao động cần cù của cha mẹ, trong khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng của quê hương.
Nhìn con lớn lên từng ngày, cha mẹ càng yêu thương mảnh đất chôn nhau, cắt rốn của con – mảnh đất do tổ tiên, ông bà để lại. Câu thơ bật thốt từ trái tim chứa chan nghĩa sâu sắc: Người đồng mình yêu lắm con ơi! Nhà thơ tự hào về những người cùng sống trên mảnh đất quê hương đã nuôi dưỡng cho con mình nên vóc nên hình. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của đồng bào dân tộc được nhà thơ miêu tả qua các hình ảnh đẹp như trong thần thoại:
“Đan lờ cài nan hoa,
Vách nhà ken câu hát.”
Các động từ cài, ken vừa diễn tả động tác lao động cụ thể, vừa nói lên sự hòa hợp, gắn bó giữa hiện thực và lãng mạn trong đời sống vật chất, tinh thần của người vùng cao. Rừng núi quê hương đã che chở, nuôi dưỡng nhiều thế hệ cả về tâm hồn và lối sống:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc bền lâu:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
Cha tự hào về người đồng mình sống vất vả mà mạnh mẽ, phóng khoáng, gắn bó sâu nặng với quê hương dù cực nhọc, đói nghèo. Người cha mong con chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng ý chí, bằng niềm tin vững chắc:
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Người đồng mình mộc mạc nhưng giàu chí khí và nghị lực. Họ có thể thô sơ da thịt nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về khí phách. Họ mong ước xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù đã tạo nên những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và quê hương:
“Người đồng mình thô sơ da thịt,
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con,
Người đồng mình tự đục đá kè cao quê hương.
Người cha mong muốn con biết ơn và tự hào với dân tộc mình, quê hương mình, để đủ tự tin và sức mạnh khi bước vào đời. Qua bài thơ này, người đọc cảm nhận được tình cảm thắm thiết của cha mẹ đối với con cái nói chung và tình yêu sâu sắc với quê hương của nhà thơ Y Phương nói riêng.