

Đình Nguyễn Trung Trực | |
---|---|
Di tích quốc gia | |
Đền thờ Nguyễn Trung Trực nhìn từ đường Nguyễn Công Trứ | |
Thờ phụng | |
Nguyễn Trung Trực | |
1837 – 1868 | |
Công tích | Thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp |
Thông tin đình | |
Thờ | Thờ anh hùng |
Địa chỉ | đường Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam |
Tọa độ | |
Thành lập | thập niên 1860 - 1870 |
Tôn tạo |
|
Lễ hội | 26, 27, 28 và 29 tháng 8 âm lịch hàng năm |
Điện thoại | 0773.863.215 |
Website | Trang mạng chính thức |
Wikimedia | © OpenStreetMap | |
Di tích quốc gia | |
Phân loại | Di tích lịch sử – văn hóa |
Ngày công nhận | 1988 |
Đền thờ Nguyễn Trung Trực hay còn gọi là Đình thờ Nguyễn Trung Trực, tọa lạc tại phía Tây trung tâm thành phố Rạch Giá. Đây là ngôi đình thờ Nguyễn Trung Trực lâu đời và lớn nhất trong chín ngôi đền thờ ông ở tỉnh Kiên Giang. Địa chỉ hiện tại là số 14 đường Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
Lịch sử
Sau khi Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp xử án chém vào ngày 27 tháng 10 năm 1868 tại chợ Rạch Giá, các tín đồ của ông đã bí mật lập đền thờ ông trong đền Nam Hải đại tướng quân (cá voi hoặc cá ông).
Ban đầu, nơi đây chỉ là một ngôi đền nhỏ dựng bằng gỗ và lợp mái lá do các ngư dân xây dựng bên bờ sông Kiên (phía trước) và rạch Lăng Ông (bên trái khi nhìn từ cổng đền), cách Biển Đông chỉ khoảng trăm mét.
Sau lần cải tạo vào năm 1881, ngôi đền đã trở nên khang trang hơn. Tuy nhiên, diện mạo hiện tại của đền là nhờ vào đợt sửa chữa lớn vào ngày 20 tháng 12 năm 1964 và hoàn thành vào ngày 24 tháng 2 năm 1970, do kiến trúc sư Nguyễn Văn Lợi thiết kế với toàn bộ chi phí xây dựng do nhân dân đóng góp.
Nhân dịp này, người dân địa phương đã tạc một bức tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng sơn đen và đặt trước khu 'chợ nhà lồng' ở Rạch Giá.
Kiến trúc

Đình thần được xây dựng theo kiểu chữ tam (chữ Hán: 三), bao gồm chánh điện, đông lang và tây lang.
Cổng đền có ba cửa (tam quan), mang vẻ cổ kính với mái ngói hai tầng trang trí hình 'lưỡng long tranh châu' trên đỉnh. Hai bên là đôi câu đối bằng chữ Quốc ngữ, đắp nổi sơn vàng trên nền đỏ, trích từ bài thơ Điếu Nguyễn Trung Trực của Huỳnh Mẫn Đạt:
- Hỏa hồng Nhật Tảo rực rỡ trời đất,
- Kiếm vung Kiên Giang làm rợn quỷ thần.
Dịch thơ Thái Bạch:
- Lửa cháy Nhựt Tảo làm rực trời đất
- Kiếm vung Kiên Giang làm rợn quỷ thần.
Vượt qua cổng đền, bạn sẽ thấy một lư hương lớn bằng đá và bức tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng màu nâu đỏ. Trước đây, tượng này được đặt trước khu 'chợ nhà lồng' Rạch Giá, sau khi sơn lại màu nâu đỏ, hiện được di chuyển vào đây.
Tiếp theo là ngôi chánh điện với mái ngói cong ở bốn góc, các viền góc trang trí hoa văn hình rồng và lá cúc. Phía trước chánh điện có hai trụ cột được chạm khắc hình rồng uốn lượn từ dưới lên quấn quanh cột.
Bên trong chánh điện, cột và kèo được làm bằng bê tông. Đền có tổng cộng mười cột, mỗi cột có chân bát giác và trên có trang trí hai lớp cánh sen. Các hoành phi, câu đối đều được sơn son thiếp vàng, tạo nên sự trang nghiêm và lộng lẫy.
Thờ cúng
Chánh điện có nhiều bàn thờ, sắp xếp từ ngoài vào trong với các bàn thờ chính như sau:
- Bàn thờ Đại càn Chánh soái.
- Bàn thờ ba mươi vị anh hùng.
- 56
- dân tộc.
- Long đình cùng di ảnh (ảnh nhỏ) của Nguyễn Trung Trực.
- Bàn để di ảnh (ảnh lớn) của Nguyễn Trung Trực.
- Bàn thờ các vị thần.
- Bàn thờ các vị thần hội đồng trăm quan cựu thần và Cửu huyền thất tổ.
Gian cuối của ngôi đền có ba ngai thờ chính:
- Ngai chính giữa thờ Nguyễn Trung Trực, với bức hoành trên bệ thờ ghi bốn chữ: Anh Khí Như Hồng (英气如虹), ca ngợi khí tiết của ông sáng rực như cầu vồng bảy sắc.
- Ngai bên trái thờ Phó cơ Nguyễn Hiền Điều và Phó lãnh binh Lâm Quang Ky.
- Ngai bên phải thờ thần Nam Hải Đại tướng quân.
Đông lang và tây lang có các bàn thờ: Tây hiến, Đông hiến, Tiền hiền, Hậu hiền, Thủy long, Đồng bào nghĩa quân liệt sĩ.
Hằng năm, vào các ngày 26, 27 và 28 tháng 8 âm lịch, đền thờ tổ chức lễ hội trọng thể để kỷ niệm ngày hy sinh của Nguyễn Trung Trực. Do đó, từ lâu dân gian đã có câu:
- Dù ai buôn bán gần xa,
- Ngày giỗ cụ Nguyễn thì ta nhớ về.
Ngoài phần lễ cơ bản theo các nghi thức truyền thống, còn có phần hội với nhiều hoạt động phong phú. Thông thường, phần hội bao gồm: giao lưu văn nghệ của ba dân tộc Kinh, Hoa, Khơme (thường có các màn diễn lại những chiến công nổi bật của Nguyễn Trung Trực, như trận đồn Rạch Giá và trận Nhật Tảo), các trò chơi dân gian, biểu diễn võ thuật, thi nấu ăn, thi múa lân, cộ hoa, và thả hoa đăng trên sông Kiên.
Mộ Nguyễn Trung Trực

Mộ Nguyễn Trung Trực được đặt trong khuôn viên đình, bên trái từ cổng nhìn vào. Ngôi mộ hình chữ nhật làm bằng xi măng, phía sau có một tấm bia cao khoảng 2 mét, rộng hơn 1 mét, ghi dòng chữ: Anh hùng Nguyễn Trung Trực (1838 - 1868). Ở góc phải mộ có tảng đá nhỏ ghi ngày đặt viên đá đầu tiên xây mộ là ngày 18 tháng 10 năm 1986.
Vào năm 1988, Bộ Văn hóa – Thông tin đã công nhận mộ và đền thờ Nguyễn Trung Trực là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia.
Thông tin thêm
Từ cổng nhìn vào bên phải đình, có phòng trưng bày các hiện vật liên quan đến cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Trung Trực lãnh đạo. Ngoài ra, tại đây còn có phòng khám và chữa bệnh bằng thuốc nam miễn phí, được thành lập từ năm 1989.
Theo thống kê chưa đầy đủ, đến năm 2009, ngoài ngôi đình này, Nguyễn Trung Trực còn được thờ chính tại nhiều ngôi đình (hay đền) khác ở:
- Tỉnh Kiên Giang: thành phố Rạch Giá (ngôi đền đang nói đến), Mong Thọ, Tân Điền, Mỹ Lâm, Sóc Xoài, Hòn Đất, Phú Quốc, Gò Quao, Tà Niên.
- Tỉnh An Giang: Long Giang (huyện Chợ Mới), Vĩnh Trạch (huyện Thoại Sơn).
- Tỉnh Hậu Giang: đình huyện Long Mỹ.
- Tỉnh Sóc Trăng: Long Phú, An Lạc (huyện Kế Sách) và Phú Lộc (huyện Thạnh Trị).
- Tỉnh Bạc Liêu: đình An Hòa (huyện Giá Rai).
- v.v.
Ngoài ra, ông còn được thờ chung trong nhiều ngôi đình làng ở miền Nam, và được nhiều người tôn thờ ngay tại nhà.
Nhà thơ Kiên Giang kể lại rằng vào năm 1947, ông đã gặp Nguyễn Bính lần đầu khi thi sĩ này đang ngủ trước cửa đình Nguyễn Trung Trực. Nguyễn Bính phải ra đây ngủ vì vợ của ông công chức nơi thi sĩ tá túc rất yêu thích thơ của ông, thường đọc thơ Nguyễn Bính khi nằm ghế xích đu, trước khi đi ngủ và mới thức dậy. Điều này khiến chồng bà ghen và hay gây sự với vợ. Để giữ gìn hạnh phúc gia đình người khác, Nguyễn Bính đành phải ra ngoài ngủ trước cửa đình.
Ghi chú
- Nhiều tác giả soạn, Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực. Nhà xuất bản QĐND, 2008, trang 135-136.
Liên kết ngoài
- Đình thần Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá. Xem thêm lưu trữ ngày 04-03-2016 tại Wayback Machine