Chùa Trấn Quốc 鎮國寺 | |
---|---|
Chùa Trấn Quốc | |
Wikimedia | © OpenStreetMap | |
Vị trí | |
Quốc gia | Việt Nam |
Địa chỉ | Đường Thanh Niên, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội |
Thông tin | |
Tôn giáo | Phật giáo |
Khởi lập | thế kỷ 6 |
Người sáng lập | Vua Lý Nam Đế |
Quản lý
| Giáo hội Phật giáo Việt Nam |
Trụ trì | Hoà Thượng Thích Thanh Nhã |
Cổng thông tin Phật giáo | |
Đền Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây (quận Tây Hồ). Đền có lịch sử gần 1500 năm và được xem là cổ nhất Thăng Long - Hà Nội. Trong thời nhà Lý và nhà Trần, đền Trấn Quốc là trung tâm Phật giáo của thành phố Thăng Long.
Kiến trúc của đền kết hợp hài hoà giữa sự uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan tươi đẹp giữa một hồ nước yên tĩnh. Với giá trị lịch sử và kiến trúc, đền Trấn Quốc nổi tiếng là nơi linh thiêng của Phật giáo, là điểm đến thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử và du khách trong và ngoài nước.
Sự phát triển lịch sử
Theo Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993), chùa Trấn Quốc ban đầu là chùa Khai Quốc, được xây dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, xây dựng trên nền cũ của cung Thúy Hoa (thời nhà Lý) và điện Hàn Nguyên (thời nhà Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được tu bổ và mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời nhà Nguyễn, chùa lại được tu bổ, đúc chuông và đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa và ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa và ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa thành Trấn Bắc. Tuy nhiên, tên gọi Trấn Quốc đã được người dân quen gọi từ thời vua Lê Hy Tông và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.
Phong cảnh và kiến trúc
Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo duy nhất trên Hồ Tây, hồ nước ngọt lớn nhất ở Hà Nội. Vào thời Hai Bà Trưng (40 - 43), khu vực xung quanh Hồ Tây có dân số thưa thớt, với các hang động và rừng cây phủ kín. Qua hàng nghìn năm tồn tại, cảnh quan nơi đây đã thay đổi hoàn toàn. Bờ hồ được bao quanh bởi đường lớn, những biệt thự và công trình hiện đại đã hình thành... Điều này không chỉ phản ánh sự hoàn thiện của kiến trúc tổng thể của thành phố mà còn vô tình phá vỡ cảnh quan lịch sử và tâm linh trong quan niệm sống của người dân bản địa.
Phía trên cửa chùa có viết ba chữ Phương Tiện môn và câu đối hai bên bằng chữ Nôm:
- Nghe tiếng xe ngựa vang qua, mở mặt non sông đứng cửa thiền
Giống như hầu hết các ngôi chùa khác ở Việt Nam, cấu trúc và nội thất của chùa Trấn Quốc được sắp xếp theo trật tự nghiêm ngặt của Phật giáo. Bao gồm nhiều lớp nhà với ba công trình chính là Tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện hình thành hình chữ Công (工).
Tiền đường hướng về phía Tây. Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Phía sau thượng điện là gác chuông. Gác chuông của chùa có ba ngian, mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh chính.
Phía bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Hiện nay, chùa Trấn Quốc lưu giữ 14 tấm bia. Trên các tấm bia được khắc năm 1815, có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích ghi lại việc tu sửa chùa sau một thời gian đổ nát. Công việc này bắt đầu từ năm 1813 và kết thúc vào năm 1815.
Phía sau chùa có một số tháp cổ từ đời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng (thế kỷ 18).
Khuôn viên chùa có Bảo tháp lục độ đài sen được xây dựng vào năm 1998. Bảo tháp lớn gồm 11 tầng, cao 15m. Mỗi tầng tháp có 6 ô cửa hình vòm, trong mỗi ô đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng (Cửu phẩm liên hoa) cũng làm từ đá quý. Bảo tháp này được xây đối xứng với cây bồ đề lớn mà Tổng thống Ấn Độ tặng khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959. Thượng toạ Thích Thanh Nhã, Uỷ viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Trụ trì chùa Trấn Quốc, đã giải thích ý nghĩa của sự đối xứng này: 'Hoa sen tượng trưng cho sự thanh tịnh của Phật, như sự sinh ra từ bùn mà không bị ô uế. Bồ đề biểu thị cho sự trí tuệ và trí giác vô biên. Tất cả đều chứa đựng ý nghĩa sâu sắc của các chân lý và hiện tượng của Phật giáo'.
Chùa được công nhận là Di tích Lịch sử Văn hoá cấp quốc gia từ năm 1989.
Tuy nhiên, sau nhiều lần trùng tu, sửa chữa, kiến trúc của chùa không tránh khỏi sự pha trộn phong cách kiến trúc từ các thời kỳ khác nhau:
- Trong các năm 1624, 1628 và 1639 (thời Chúa Trịnh), chùa được trùng tu, mở rộng.
- Trải qua thời kỳ Tây Sơn, trong bối cảnh tranh chấp quyền lực cuối thời Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, ngôi chùa rơi vào tình trạng hoang phế. Cư dân địa phương đã đề nghị được tu sửa lại chùa. Đợt tu sửa lớn nhất diễn ra vào năm Ất Hợi, niên hiệu Gia Long 14 (được ghi trên văn bia Tái tạo Trấn Quốc tự bi, do Tiến sĩ khoa 1779 Phạm Lập Trai soạn).
- Vào năm 2010, chùa được tu bổ để chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo Thế giới lần thứ 6 được tổ chức tại Việt Nam vào tháng 11/2010. Dự toán kinh phí cho đợt tu bổ này là 15 tỷ đồng.
Trên văn bia 'Tái tạo Trấn Quốc tự bi', do Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi năm Cảnh Hưng thứ 40 soạn, ca ngợi: 'Đứng trên cao ngắm cảnh chùa, mây lồng đáy nước, mặt hồ ánh xanh xanh làm cho du khách say đắm. Tiếng chuông chùa reo gọi ai tỉnh giấc giữa thế gian...'
Vinh danh
Năm 2016, báo Daily Mail ở Anh xếp chùa vào trong danh sách 16 ngôi chùa đẹp nhất thế giới. Năm 2017, trang web du lịch wanderlust.co.uk đánh giá chùa Trấn Quốc ở vị trí thứ ba trong danh sách 10 ngôi chùa 'đẹp nhất trên thế giới' vì sự hòa hợp với thiên nhiên xung quanh.
Các thế hệ trụ trì
- Thiền Sư Vân Phong
- Tăng Thống Khuông Việt
- Quốc Sư Thảo Đường
- Thiền Sư Thông Biện
- Thiền Sư Viên Học
- Thiền Sư Tịnh Không
Dòng Tào Động
- Viên Dung Hòa Thượng, Thiền Sư Tịnh trí Giác Quán (dòng Tào Động), sư thuộc thế hệ thứ 4 chùa Hòe Nhai sang trụ trì chùa Trấn Quốc.
- Quảng Tế Thiền Sư húy Hải Ngạn
- Trung Nghĩa Hòa Thượng, Bí Hóa Thiền Sư húy Khoan Nhạ
- Minh Lãnh Thiền Sư, Phương Trượng Tỷ Kheo, húy Giác Khoan.
- Phổ Tế Thiền Sư, Hương Lâm Tháp Thanh Từ Sa Môn, húy Khoan Nhân.
- Đạo Sinh Thiền Sư, Tinh Thông Hòa thượng, Thanh Hải tỳ Kheo.
- Sinh Tín Thiền Sư, húy Thanh Tuyền.
- Thích Dương Dương thiền sư, húy Thanh uyên - Đạo Sùng.
- Quang Lư Thiền sư, Hồng Phúc Sa Môn, Thích Đường Đường.
- Mẫn Tiệp thiền sư, húy Chính Tiến.
- Phúc Hòa Thiền Sư, húy Tâm Lợi, thế danh Đặng Văn Lợi.
- Mã Đạo Hòa Thượng, húy Chân Nghĩa.
Dòng Tào Động chùa Cả Nam Định
- Hoà Thượng Kim Cương tử (1914 - 2001) hiệu Thúy Đồ Ba Thành Luật Sư, Phó chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự TƯ GHPGVN, sư về trụ trì năm 1983, sau khi các sư dòng Tào Động nam tiến từ thập niên 1953
- Hoà thượng Thích Thanh Nhã, sinh năm 1950,
Các khách thăm đặc biệt
- Dưới triều vua Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan đã nhiều lần đến chùa cùng các vị cao tăng để đàm đạo.
- Năm Kỷ Mão (1639) chúa Trịnh Tráng cho sửa và trồng sen quanh chùa, biến nơi thờ cúng thành hành cung riêng của nhà Chúa.
- Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm, ban 20 lạng bạc để tu sửa chùa.
- Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền để tu sửa chùa.
- Ngày 24 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad đến thăm chùa và tặng cây bồ đề trồng trước cửa tòa Tam bảo .
- Ngày 28 tháng 11 năm 2008, Tổng thống Ấn Độ Pratibha Patil đến thắp hương và tham quan nhân dịp trong chuyến công du Việt Nam .
- Ngày 31 tháng 10 năm 2010, Tổng thống LB Nga Dmitry Medvedev đến tham quan trong dịp đến Hà Nội dự Hội nghị Cấp cao không thường niên ASEAN - LB Nga lần thứ hai .