Một phần của loạt bài về |
Các nền văn hóa khảo cổ Việt Nam |
---|
Hậu kỳ Thời đại đồ đá cũ |
Văn hóa Tràng An (23.000 TCN - 1.000 TCN) Văn hóa Sơn Vi (20.000 - 12.000 TCN) Văn hóa Soi Nhụ (18.000 - 7.000 TCN) |
Thời đại đồ đá mới |
Văn hóa Hòa Bình (12.000 - 10.000 TCN) Văn hóa Bắc Sơn (10.000 - 8.000 TCN) Văn hóa Quỳnh Văn (8.000 - 6.000 TCN) Văn hóa Cái Bèo (7.000 - 5.000 TCN) Văn hóa Đa Bút (6.000 - 5.000 TCN) |
Thời đại đồ đồng đá |
Văn hóa Hạ Long (3.000 - 1.500 TCN) Văn hóa Phùng Nguyên (2.000 - 1.500 TCN) Văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc Văn hóa Tiền Sa Huỳnh (2.000 - 1.000 TCN) |
Trung kỳ thời đại đồ đồng |
Văn hóa Đồng Đậu (1.500 - 1.000 TCN) |
Hậu kỳ thời đại đồ đồng |
Văn hóa Gò Mun (1.000 - 600 TCN) |
Thời kỳ đồ sắt |
Văn hóa Sa Huỳnh (1.000 TCN - 200 CN) Văn hóa Đông Sơn (800 TCN - 200 TCN) Văn hóa Đồng Nai (500 TCN - 0) Văn hóa Óc Eo (1 - 630) |
Di sản văn hóa Phùng Nguyên là một nền văn hóa tiền sử thuộc giai đoạn đầu của thời kỳ đồ đồng và cuối thời kỳ đồ đá mới, kéo dài từ cuối thiên niên kỷ III TCN đến giữa thiên niên kỷ II TCN. Nền văn hóa này được đặt tên theo một làng ở xã Kinh Kệ (hiện nay là xã Phùng Nguyên), huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi phát hiện các di tích đầu tiên. Di chỉ văn hóa Phùng Nguyên đã được tìm thấy ở nhiều tỉnh như Phú Thọ, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nội, Hải Phòng và một số vùng khác trong lưu vực sông Hồng. Đến năm 1998, khoảng 55 địa điểm tương tự đã được phát hiện, trong đó có 3 địa điểm chứa di cốt người. Công cụ bằng đá chiếm ưu thế và rất phổ biến. Đồ trang sức từ đá, đá bán quý và ngọc rất phong phú, đặc biệt là vòng đá. Bên cạnh đồ đá, cư dân Phùng Nguyên còn chế tạo gốm với kỹ thuật đặc sắc, từ làm đất đến tạo hình và trang trí hoa văn. Đồ đồng và kỹ thuật luyện kim xuất hiện nhưng còn hạn chế.
Ngoài văn hóa Phùng Nguyên, các nền văn hóa sơ kỳ thời đại đồ đồng ở Việt Nam còn bao gồm văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc (lưu vực sông Mã), các bộ lạc nguyên thủy ở lưu vực sông Lam, bộ lạc ở thượng lưu sông Mã (huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La), văn hóa Tiền Sa Huỳnh (Trung Trung bộ), và văn hóa Đồng Nai (Đông Nam bộ).
Kỹ thuật chế tác đá
Dựa trên các di vật khảo cổ, có thể thấy người Phùng Nguyên đã phát triển kỹ thuật chế tác đá đến mức tinh xảo. Kỹ thuật mài và cưa đá rất phổ biến, cho phép tạo ra công cụ và trang sức với hình dáng đa dạng, độ chính xác cao và hiệu quả sử dụng nguyên liệu. Họ cũng đã thành thạo kỹ thuật khoan và tiện đá.
Những công cụ đá của người Phùng Nguyên, như rìu và bôn với thiết diện tứ giác nhỏ nhắn, dù kích thước khiêm tốn nhưng lại sắc bén như những con dao nhỏ. Vòng trang sức đá tinh xảo mà họ để lại càng khiến người hiện đại phải trầm trồ. Điều này chứng tỏ rằng kỹ thuật chế tác đá của người Phùng Nguyên đã đạt đến đỉnh cao mà các nền văn hóa khác khó có thể vượt qua.
Trong số các di vật thuộc Văn hóa Phùng Nguyên, đồ đá vẫn là loại chiếm số lượng lớn nhất, bao gồm các công cụ sản xuất như rìu, bàn mài, và bàn dập. Đặc biệt, loại bàn dập với 6-7 rãnh song song có chức năng chưa rõ ràng vẫn thu hút sự chú ý. Nhiều dọi se sợi cũng đã được tìm thấy tại các di chỉ.
Kỹ thuật chế tác gốm
Kỹ thuật làm gốm của người Phùng Nguyên đạt đến trình độ tinh xảo với việc tạo hình, chọn chất liệu và trang trí hoa văn. Hoa văn trên gốm Phùng Nguyên rất đa dạng, bao gồm văn chải, văn thừng, văn khắc vạch, văn in, và văn đan. Đặc trưng của gốm Phùng Nguyên là sự kết hợp giữa khắc vạch và in, lăn, với các họa tiết được bố trí đối xứng hoặc nối liền nhau hình chữ S. Gốm Phùng Nguyên có ba loại hình chính: mịn, thô và rất thô.
Gốm của người Phùng Nguyên được chế tác bằng bàn xoay (dùng chân hoặc tay) hoặc qua nặn, gắn, và chắp. Họ đã biết tráng gốm một lớp phủ bên ngoài trước khi đưa vào lò nung, đánh dấu bước khởi đầu của kỹ thuật tráng men sau này. Gốm được nung trong hố ngoài trời với nhiệt độ khoảng 600-800 độ C.
Đồ gốm Phùng Nguyên rất đa dạng, nhưng chủ yếu vẫn là các vật dụng gia đình như nồi, bình, và bát có chân đế với thiết kế đẹp mắt. Đặc trưng của gốm Phùng Nguyên là những đồ đựng có miệng rộng và thành mỏng. Một số di chỉ còn tìm thấy bi gốm, có thể là đồ chơi cho trẻ em thời đó. Đặc biệt, từ thời đại đồng thau của Phùng Nguyên đến Đông Sơn, còn xuất hiện một loại gốm độc đáo với công dụng và tên gọi chưa rõ ràng, được gọi là chạc gốm hoặc chân giò gốm. Có ý kiến cho rằng chạc gốm có công dụng tương tự như những chiếc sừng trâu với lỗ thủng lớn ở đầu nhọn, dùng để tiếp nước hoặc rượu cần.
Đồ đồng
Trong văn hóa Phùng Nguyên, đồ đồng đã xuất hiện nhưng vẫn khá hiếm và kỹ thuật luyện kim còn chưa phát triển nhiều. Tại di chỉ Gò Bông thuộc giai đoạn đầu của văn hóa Phùng Nguyên, xỉ đồng được phát hiện chứng tỏ cư dân đã luyện đồng tại chỗ hoặc gần đó. Phân tích xỉ đồng cho thấy họ đã biết đến hợp kim đồng thau, kết hợp giữa đồng và thiếc.
Hiện chưa phát hiện được đồ đồng Phùng Nguyên nào còn nguyên vẹn, cho thấy đồ đồng vẫn còn rất khan hiếm. Đồ đá vẫn là loại công cụ chủ yếu trong sản xuất và sinh hoạt.
Nông nghiệp
Việc phát hiện một số hạt gạo cháy trong tầng văn hóa sớm nhất tại di chỉ Đồng Đậu thuộc văn hóa Phùng Nguyên, cùng với công cụ đá và đồ gốm, gợi ý rằng người Phùng Nguyên đã có kiến thức về nông nghiệp lúa nước. Tuy nhiên, quy mô và vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế của họ vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ do thiếu tài liệu.
Các di chỉ
Đến nay, hơn 60 di chỉ thuộc văn hóa Phùng Nguyên đã được phát hiện, phân bố rộng rãi trong châu thổ Bắc Bộ, đặc biệt dọc theo các sông lớn như sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy. Các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Hà Nội và Bắc Ninh là nơi tập trung nhiều nhất.
- Di chỉ Phùng Nguyên, nằm tại xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, là nơi đầu tiên được đặt tên cho nền văn hóa này. Được khai quật nhiều lần từ năm 1959 đến 1970, diện tích khoảng 4.000m².
- Di chỉ Mán Bạc tại thôn Bạch Liên, xã Yên Thành, huyện Yên Mô (Ninh Bình), nằm trong hệ thống đứt gãy của dải núi đá vôi Tam Điệp. Đây là di chỉ thuộc giai đoạn cuối của văn hóa Phùng Nguyên, đầu Đồng Đậu, khoảng 4.000 năm tuổi. Di chỉ Mán Bạc được bao quanh bởi dải núi tạo thành nơi ở kín đáo. Năm 1999, các nhà khảo cổ đã khai quật và tìm thấy 5 mộ với 6 cá thể. Lần khai quật sau, với diện tích 24m², phát hiện 10 mộ và 11 cá thể, trong đó có 39 rìu, 8 đục, 6 hạt chuỗi, 10 mảnh vòng, 2 bàn đập vải, 3 nồi gốm, 1 bát đồng, 3 hiện vật hình nấm và hàng trăm kilogam vỏ nhuyễn thể. Đây là di chỉ Phùng Nguyên đầu tiên giữ được di cốt người khá nguyên vẹn, với 50% là trẻ sơ sinh.
- Di chỉ Văn Điển, Tân Triều (Thanh Trì – Hà Nội) và di chỉ Phùng Nguyên muộn tại Đàn Xã Tắc (Đống Đa - Hà Nội) mới được phát hiện gần đây.
- Các di chỉ khác bao gồm Hồng Đà (Phú Thọ), Tràng Kênh (Hải Phòng), Bãi Tự (Bắc Ninh).
- Di chỉ khảo cổ học Phùng Nguyên