Thanh Hóa là tỉnh cực bắc của Trung Bộ, giáp Lào và có bờ biển thuộc vịnh Bắc Bộ. Với diện tích lớn, địa lý Thanh Hóa đa dạng, mang đặc điểm của Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, cùng với những nét đặc trưng riêng.
Vị trí địa lý
Theo đo đạc thiên văn cổ xưa năm 1831 (năm Minh Mệnh 10), Thanh Hóa thuộc về sao Dực và sao Chẩn, tinh thứ sao Thuần Vĩ, mức cao nhất là 19 độ 26 phân, lệch về phía tây 1 độ 40 phân.
Hiện nay, theo số liệu đo đạc hiện đại của cục bản đồ, Thanh Hóa nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến 106°05' Đông. Phía bắc và tây bắc giáp ba tỉnh: Hòa Bình, Ninh Bình, Sơn La; phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn, Lào với đường biên giới dài 192 km; phía đông Thanh Hóa mở ra vịnh Bắc Bộ với bờ biển dài hơn 102 km. Diện tích tự nhiên của Thanh Hóa là 11.106 km², đứng thứ 5 cả nước, chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km².
Địa hình và địa mạo
Địa hình dốc từ tây bắc xuống đông nam với những đồi núi cao từ 1.000 m đến 1.500 m, mở rộng về phía đông nam. Đồi núi chiếm 3/4 diện tích tỉnh, là tiềm năng lớn cho kinh tế lâm nghiệp với lâm sản phong phú.
Khu vực miền núi và trung du
Miền núi và trung du chiếm phần lớn diện tích Thanh Hóa, bao gồm 11 huyện: Như Xuân, Như Thanh, Thường Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy và Thạch Thành. Miền đồi trung du có diện tích hẹp, không liên tục, do đó không được tách biệt mà được xem là một phần của miền núi chung.
Khu vực đồi thấp phía Đông có đất đai màu mỡ, với quốc lộ 15 chạy dọc từ bắc xuống nam và quốc lộ 45, 47, 217 kết nối với thành phố Thanh Hóa.
Khu vực đồi núi phía Tây có khí hậu mát mẻ, lượng mưa lớn, nguồn lâm sản phong phú và tiềm năng thủy điện lớn, đặc biệt là sông Chu và các phụ lưu có điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các nhà máy thủy điện. Quốc lộ 45, 47, 217 kết nối vùng này với đồi thấp phía Đông và đồng bằng.
Miền đồi núi phía Nam chủ yếu là đồi núi thấp với đất đai màu mỡ, thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp và cây đặc sản. Khu vực này có Vườn quốc gia Bến En thuộc hai huyện Như Thanh và Như Xuân, với rừng phát triển tốt, nhiều gỗ và thú quý. Quốc lộ 1, 15 và đường tỉnh 512 là các trục giao thông chính.
Khu vực đồng bằng
Vùng đồng bằng Thanh Hóa (đồng bằng sông Mã) là vùng đồng bằng lớn nhất miền Trung và lớn thứ ba cả nước, với diện tích bằng một nửa diện tích các đồng bằng Trung Bộ cộng lại, khoảng 3000 km². Vùng này bao gồm thành phố Thanh Hóa, thị xã Bỉm Sơn và các huyện Đông Sơn, Hà Trung, Nông Cống, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Triệu Sơn, Vĩnh Lộc, Yên Định.
Đồng bằng Thanh Hóa mang đặc trưng của một đồng bằng châu thổ, được bồi đắp bởi phù sa từ các hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt. Điểm thấp nhất của đồng bằng so với mực nước biển là 1m.
Quốc lộ 1 chạy dọc vùng đồng bằng từ bắc xuống nam, cùng với tuyến đường sắt Bắc - Nam đi qua các ga Bỉm Sơn, Đò Lèn, Thanh Hóa, Yên Thái, Minh Khôi và Thị Long.
Khu vực ven biển
Bao gồm 6 huyện, thành phố, thị xã từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Sầm Sơn, Quảng Xương đến Nghi Sơn, chạy dọc bờ biển với vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa sông Hoạt, sông Mã, sông Yên, sông Lạch Bạng. Bờ biển dài, tương đối bằng phẳng, có bãi tắm nổi tiếng Sầm Sơn và vùng đất rộng lớn thuận lợi cho việc lấn biển, nuôi trồng thủy sản, phát triển kinh tế biển. Quốc lộ 10 ở các huyện phía bắc, và quốc lộ 1, 45, 47 ở phía nam là các tuyến đường bộ chính. Đường sắt Bắc - Nam đi qua phía bắc và nam khu vực với các ga Nghĩa Trang, Văn Trai, Khoa Trường, Trường Lâm.
Khí tượng và thủy văn
Nằm trong vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ, hàng năm có 3 mùa gió chính:
- Gió Bắc (gió bấc): Không khí lạnh từ áp cao Serbia qua Trung Quốc thổi vào.
- Gió Tây Nam: Từ vịnh Bengal qua Thái Lan, Lào, gió rất nóng nên gọi là gió Lào hay gió Tây Nam.
- Gió Đông Nam (gió nồm): Thổi từ biển vào mang theo khí mát mẻ.
- Mùa nóng: Từ cuối mùa xuân đến giữa mùa thu, trời nắng, mưa nhiều, thường có lụt, bão, hạn hán, khi có gió Lào nhiệt độ có thể lên tới 39-40°C.
- Mùa lạnh: Từ giữa mùa thu đến hết mùa xuân năm sau, có gió mùa đông bắc, mưa ít, đầu mùa hanh khô. Mùa đông ở Thanh Hóa ít lạnh hơn miền Bắc. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1730-1980 mm, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10 âm lịch, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau mưa ít hơn 15%.
- Nhiệt độ không khí: Tổng tích ôn trung bình hàng năm khoảng 86000°C, nhiệt độ trung bình từ 23,6°C đến 24,3°C, mùa hè nhiệt độ cao nhất đến 40°C, mùa đông thấp nhất đến 5-6°C.
- Độ ẩm không khí: Trung bình 80-85%.
- Nắng: Khoảng 1700 giờ nắng mỗi năm, tháng 7 là tháng nắng nhất, tháng 2 và tháng 3 ít nắng nhất.
- Gió: Thành phố Thanh Hóa cách biển Sầm Sơn 10 km đường chim bay, nằm trong tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven biển, nhờ có gió biển nên những ngày có gió Lào, thời gian không khí nóng chỉ từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa.
- Bão: Theo chu kỳ 3-5 năm xuất hiện một lần từ cấp 9 đến cấp 10, có năm đến cấp 11-12.
- Thủy văn: Sông Mã hàng năm đổ ra biển khoảng 17 tỷ m³ nước, vùng biển chịu ảnh hưởng của thủy triều, nước mặn xâm nhập vào cửa sông và đồng ruộng ven biển.
Tài nguyên thiên nhiên
Tỉnh Thanh Hóa có nguồn tài nguyên đa dạng nhưng trữ lượng không lớn và phân bố rải rác, gây khó khăn cho việc phát triển công nghiệp khai khoáng. Hiện tại, chỉ có một số nhà máy đang khai thác tài nguyên như nhà máy xi măng Bỉm Sơn, xi măng Nghi Sơn, phân bón Hàm Rồng. Nhiều tài nguyên bị thất thoát do quản lý chưa chặt chẽ. Theo Sở Tài nguyên và Môi trường Thanh Hóa năm 2004, nguồn tài nguyên của tỉnh như sau:
- Đá vôi làm xi măng: trữ lượng 370 triệu tấn, chất lượng tốt, phân bố tại Quan Hóa, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Bỉm Sơn, Hà Trung.
- Sét làm xi măng: trữ lượng 85 triệu tấn, chủ yếu ở Hà Trung, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Nghi Sơn.
- Sét làm gạch ngói: trên 20 triệu khối, chất lượng tốt, phân bố tại Thạch Thành, Hà Trung, Thiệu Hóa, Yên Định, Thọ Xuân, Quảng Xương, Nghi Sơn.
- Sét cao nhôm: trữ lượng 5 triệu tấn, dùng làm gạch chịu lửa và gạch ốp lát.
- Cát xây dựng: trữ lượng rất lớn, phân bố khắp tỉnh.
- Đá ốp lát: trữ lượng 2-3 tỷ khối, chất lượng tốt, nhiều màu sắc đẹp, độ bền cao.
- Đá bọt: dùng làm phụ gia xi măng.
- Quặng sắt: 5 mỏ đã được thăm dò, trữ lượng 3 triệu tấn.
- Quặng crom: trữ lượng 21.898 triệu tấn, chỉ có tại Triệu Sơn và Ngọc Lặc của Thanh Hóa.
- Vàng sa khoáng: tập trung ở Cẩm Thủy, Bá Thước, Thường Xuân.
- Vàng gốc: tập trung chủ yếu ở làng Nèo, huyện Bá Thước.
- Đá quý, bán quý: tập trung ở tây nam tỉnh, chưa được khảo sát kỹ.
- Phốtphorit: trữ lượng 1 triệu tấn, chất lượng trung bình.
- Serpentin: trữ lượng 15 triệu tấn, chất lượng khá tốt.
- Đôlômit: trữ lượng 4,7 triệu tấn, chất lượng rất tốt.
- Than đá: trữ lượng không đáng kể.
- Than bùn: trữ lượng 2 triệu tấn, là nguyên liệu chính để làm phân bón vi sinh.
- Nước mặt: Các sông lớn như sông Mã, sông Chu, sông Hoạt, sông Bưởi, sông Lạch Bạng, sông Yên có tổng chiều dài 881 km, tổng diện tích lưu vực 39.756 km², tổng lượng nước ngọt trung bình hàng năm 19,52 tỷ m³.
- Muối biển: Nước biển Thanh Hóa có độ mặn cao 2,5-2,8% từ tháng 11 đến tháng 6 năm sau, cao nhất vào tháng giêng 3,2-3,3%.