Diêm quẹt (còn gọi là hộp quẹt hoặc hột quẹt) là dụng cụ tạo ra ngọn lửa để đốt cháy các vật liệu dễ cháy như thuốc lá, giấy, rơm, hay than củi trong các bếp nướng. Chúng thường được làm bằng kim loại hoặc nhựa, chứa chất lỏng dễ cháy như butan hoặc xăng. Loại sử dụng xăng gọi là diêm quẹt xăng, loại dùng butan gọi là diêm quẹt ga. Thường thì phía trên có bộ phận nạp đá lửa và bánh răng nhỏ bằng thép để tạo tia lửa qua ma sát. Cũng có loại sử dụng nguyên lý áp điện.
Các diêm quẹt dùng xăng có bấc nhỏ nhúng trong xăng, giúp xăng thấm lên trên. Chúng có nắp đậy để giữ hơi xăng không bay mất và dễ dập lửa khi cần (khi đóng nắp lại). Diêm quẹt dùng butan có van tự động khóa để ngăn hơi butan thoát ra khi không sử dụng.
Tia lửa được tạo ra bằng cách vặn bánh răng trên 'đá lửa' hoặc ép nút để kích hoạt tinh thể áp điện. Trong diêm quẹt xăng, hơi xăng dễ bay hơi ngay khi nắp được mở. Với diêm quẹt ga, tia lửa xuất hiện khi mở van cho hơi butan ra. Lửa sẽ tiếp tục cho đến khi nắp được đóng lại (với diêm quẹt xăng) hoặc khi van được giải phóng (với diêm quẹt ga).
Một lớp chắn kim loại có lỗ hút khí bao quanh khu vực cung cấp lửa, giúp không khí hòa trộn với hơi chất cháy (xăng, butan) đồng thời giảm tác động của gió. Trong các diêm quẹt ga, vòi phun sử dụng nguyên lý Bernoulli, vì vậy các lỗ hút khí thường nhỏ hơn và xa hơn khu vực tạo lửa.
Diêm quẹt trên ô tô
Hầu hết các ô tô trang bị một thiết bị điện để tạo lửa. Thiết bị này có một cuộn dây mỏng làm từ hợp kim nicrôm, khi hoạt động, dòng điện khoảng 15-20 ampere chạy qua. Phần tử phát nhiệt nóng đỏ trong thời gian ngắn, đủ để đốt cháy đầu thuốc hoặc bùi nhùi để tạo ra lửa.
Ổ cắm của 'diêm quẹt' này có nguồn điện 12 volt, có thể dùng cho nhiều mục đích khác như bộ dao cạo điện, đèn di động, máy tính xách tay, điện thoại di động, PDA, bộ điều hợp USB, máy nghe nhạc kỹ thuật số, hoặc thậm chí là tủ lạnh nhỏ hoạt động theo nguyên lý nhiệt điện. Đối với các thiết bị chỉ hoạt động với
Nhiều ô tô mới đã thay thế 'diêm quẹt' bằng ổ điện 12 volt vì nhiều người đã ngừng hút thuốc, khiến nó không còn chức năng như diêm quẹt nữa.
Đá lửa
Đá lửa sử dụng trong bật lửa là hợp kim sắt-xêri (ferrocerium), có khả năng phát ra tia lửa khi bị ma sát trên bề mặt thô ráp. Kim loại này còn được gọi là kim loại Auer, theo tên của Nam tước Carl Auer von Welsbach, và thường được bán dưới các thương hiệu như Blastmatch, Fire steel (thép lửa), và Metal-match (diêm kim loại).
Nguyên lý tạo tia lửa từ đá lửa là do ma sát khi đá bị mài mòn ngay lập tức. Điều này tương tự như cách tạo lửa từ đá lửa của người tiền sử, nhưng khác ở chỗ đá lửa cổ đại cắt vật thể mềm hơn, trong khi đá lửa hiện đại tự bị cắt bởi vật khác.
'Đá lửa' trong các bật lửa được chế tạo từ kim loại đất hiếm, chủ yếu là xêri hoặc các kim loại trong nhóm này, với điểm nổi bật là nhiệt độ đánh lửa thấp (150-180 °C). Để dễ sử dụng hơn, các hợp kim giòn hơn được tạo ra bằng hai cách:
- Oxide - nhiều loại đá lửa hiện đại được làm cứng bằng oxide sắt (khoảng 20%) và oxide magiê (khoảng 2%).
- Kim loại trung gian - trong hợp kim nguyên bản của Nam tước von Welsbach, 30% sắt (ferrum) được thêm vào xêri (cerium) tinh khiết, tạo thành 'ferro-cerium'. Sắt kết hợp với kim loại đất hiếm tạo thành hợp chất cứng, tương tự như chất trong nam châm neôđim (neodymium); những nam châm này dễ phát sinh tia lửa khi bị vỡ đột ngột.
- Diêm quẹt
- Bật lửa Zippo (bật lửa xăng)
Các liên kết bên ngoài
- Giải thích về bật lửa trên Wiktionary