
Núi Bài Thơ là một ngọn núi đá vôi tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Trên đỉnh núi này, có các bài thơ bằng chữ Hán của Lê Thánh Tông được khắc trên đá từ năm 1468, và của Trịnh Cương từ năm 1729. Những bài thơ này đã trở thành nguồn gốc tên gọi cho núi.
Lịch sử hình thành
Núi nằm sát bờ biển, một nửa nằm dưới nước, thuộc khu di sản Vịnh Hạ Long.
Đá núi hình thành từ kỷ Carbon - Permi, được tạo nên bởi các hoạt động kiến tạo núi và kiến tạo hiện đại. Đỉnh cao nhất của núi có hình dạng giống như một chiếc mác vươn lên trời, đạt độ cao +168 mét, với nhiều ngọn núi, nhiều mỏm đá chồng chất, vách đá thẳng đứng và những lèn đá nhọn sắc tạo nên vẻ cổ kính, huyền bí cho núi.
Nhiều người từ nhiều góc độ nhìn thấy núi có hình dáng giống như hổ phục, lúc như sư tử vồ mồi, và lúc như con rồng sắp cất cánh.
Núi Bài Thơ xưa kia được gọi là núi Rọi Đèn, hay còn gọi là Truyền Đăng Sơn. Theo truyền thuyết, ngày xưa lính thú trên núi khi có kẻ thù đến thì đốt lửa để báo tin về kinh thành. Từ đó núi được gọi là Truyền Đăng.
Vào cuối thế kỷ XIX, trong quá trình khai thác than, thực dân Pháp đã đào đất đá từ các lò lửa đổ xuống bờ vịnh, làm lấp dần biển để kết nối núi Bài Thơ với đất liền ở nửa phía Bắc, trong khi nửa phía Nam vẫn là biển. Đầu thế kỷ XXI, do sự phát triển đô thị, nửa vòng phía Nam cũng đã được bồi đắp, xây dựng cây cầu chạy qua phần chân núi Bài Thơ và xây dựng các khu biệt thự ven biển.
Các bài thơ trên núi
Năm 1468, trong mùa xuân năm thứ 9 của triều Quang Thuận, vua Lê Thánh Tông, con cháu của vua Lê Lợi, dẫn quân đi tuần dọc bờ biển Đông Bắc, dừng chân tại chân núi Truyền Đăng, gần Vịnh Hạ Long, để uống rượu ngâm thơ. Trước cảnh sắc hữu tình của thiên nhiên, nhà thơ vua Lê Thánh Tông đã khắc bài thơ lên tường đá, thường được gọi là '御製天南洞主題 (Ngự chế Thiên Nam động chủ đề)' (Thiên Nam động chủ là tên hiệu của vua Lê Thánh Tông).

Bài thơ này được khắc trên một tường đá khá phẳng, cách mặt đất khoảng 2,5 mét, gồm 56 chữ Hán, khắc liền một mạch, không phân câu như bản ghi lại ngày nay. Trong 56 chữ này, có 21 chữ đã mờ hẳn, không thể đọc được, những chữ còn lại cũng rất mờ. Phía trước bài thơ có phần lạc khoản (đề tựa) gồm 49 chữ, cũng bị phân hóa gần như hoàn toàn. May mắn, bài thơ này cũng được chép trong các tư liệu cổ, đó là nguồn tài liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu.
光順九年春, 二月, 餘親率六師閱武於白滕江上. 是日風和景麗, 海不揚波, 乃泛黃海, 巡安邦, 駐六師於傳燈山下. 磨石一律雲。(Quang Thuận cửu niên xuân, nhị nguyệt, dư thân xuất lục sư duyệt vũ vu Bạch Đằng giang thượng. Thị nhật phong hòa, cảnh lệ, hải bất dương ba, nãi phiếm Hoàng Hải tuần An Bang, trú lục sư vu Truyền Đăng sơn hạ, ma thạch nhất luật vân:) (Dịch nghĩa: Tháng 2, mùa xuân năm Quang Thuận thứ 9, trẫm (ta) thân dẫn sáu sư tập trận trên sông Bạch Đằng. Những ngày đó, gió êm cảnh đẹp, biển không nổi sóng, bèn lướt thuyền qua Hoàng Hải, tuần du An Bang, trú sáu sư dưới chân núi Truyền Đăng, mài tường đá, khắc thơ rằng:)
Cơn triều lớn dâng cao như đại dương, hàng trăm con sông chảy xuyên qua.
Những dãy núi hoang sơ, bố trí rải rác nối liền với bầu trời xanh biếc.
Tâm hồn mạnh mẽ lúc đầu cảm nhận ba dòng sông.
Nhấc bút xa vời, vươn tới với hai quyền năng.
Tại đỉnh phía Bắc, tư tưởng rối ren như rừng rậm, như đoàn hổ quân chiến.
Đông biển tĩnh lặng sóng trong. Ngọn núi non trùng vờn vẽ, bờ bãi sắc như tranh. Quân thuyền bộ quyết hùng mạnh như hổ, thần thái vang lên như sấm. Lòng ta lúc ấy hưng thú thúc giục muốn viết theo vần thơ treo trên vách đá từ trước, sáng tạo thành bài thất ngôn lưu lại trên vách đá.
Phía nam, núi sông vạn đời còn ở đó.
Năm đó là thời niên đại tu văn yển vũ.
261 năm sau, vào năm 1729, chúa An Đô Vương Trịnh Cương, một nhà thơ nổi tiếng thời Lê - Trịnh, cũng dẫn quân đi tuần qua đây. Ông đã đặt trại quân dưới chân núi Truyền Đăng. Đọc bài thơ của vua Lê Thánh Tông, chúa Trịnh đã họa lại bằng một bài thất ngôn bát cú, lấy vần 'yên' của bài trước, sử dụng lại 4 từ 'thiên', 'quyền', 'yêu', 'niên' từ bài của Lê Thánh Tông. Phần đề của bài thơ ghi rằng: “Ngày gặp bình yên, thích nhân nghỉ ngơi, cũng ra biển đông ngắm núi non như hình vẽ, biển lặng sóng trong. Quân thủy bộ mạnh mẽ như hổ, vang danh như sấm, tinh thần lúc ấy ta muốn sống lại nên viết theo vần thơ trên vách đá trước, tạo ra bài thất ngôn để lưu truyền trên vách đá”.
Dịch thơ của Hà Minh bài thơ họa của Trịnh Cương:
Đại dương bao la, nước dâng cao
Núi sụp xuống biển, nước phủ mây
Đôi tay tạo hóa tài khéo léo
Cảnh thiên nhiên tuyệt vời ở đây
Mùi mặn nồng giữa dòng thác xa xăm
Hoa cỏ sương khói vẫn hiện hữu nơi đây
Ba người tướng sĩ đều hân hoan vui vẻ
Bữa tiệc trên biển xanh chén rượu tràn đầy
Bài thơ của Trịnh Cương được khắc bằng chữ hành trên một tảng đá dốc xuống đất, từ đó tránh được ảnh hưởng của mưa nước, cho đến nay vẫn rất rõ ràng, dễ đọc.
Ngoài hai bài thơ này, còn có bài của Nguyễn Cẩn khắc vào ngày mùng ba tháng Chạp năm Canh Tuất (1910). (Nguyễn Cẩn người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, có tên hiệu là Hương Khuê, là tác giả của nhiều bài thơ chữ Hán, được xem là một trong những nhà thơ xuất sắc cuối thời Nguyễn và đầu thế kỷ XX. Ông từng làm quan Án sát triều Nguyễn, được vua Nguyễn bổ nhiệm làm Tuần phủ Quảng Yên, tức tỉnh Quảng Ninh ngày nay.)
Vua Lê Thánh Tông viết thơ trên đá,
Núi Đông Minh cao vút, non bách xích.
Thiên nhiên, biển đảo đêm ngày khác nhau kích thích,
Năm trăm năm còn dư, tự do vẫn tồn tại.
Bút hoạ xưng ngự, ai sánh bằng?
Chúa Trịnh khát vọng đồng dân không thành.
Tôi rời bỏ kiếm, không giữ sân,
Ba hậu Lê chiến thần hậu!
Ngoài ra, đầu thế kỷ 20, nhiều người thơ, khách du lịch đi tham quan vùng Hạ Long, cũng khắc 9 bài thơ nữa, có bài viết bằng chữ Hán, có bài viết bằng chữ Quốc ngữ trên các vách đá xung quanh. Hiện nay, có tổng cộng 12 bài thơ được lưu truyền trên các vách đá.
Vinh danh
Ngày 31/8/1992, khu di tích núi Bài Thơ được công nhận là Di tích lịch sử, danh thắng quốc gia. Vào ngày 24/11/2000, Trung tâm điện chính Bưu điện Quảng Ninh trên núi Bài Thơ được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia.
Thăm quan núi Bài Thơ
Đường lên núi Bài Thơ đã bị đóng cửa từ cuối năm 2017 sau một vụ cháy rừng và sạt lở đất. Uỷ ban nhân dân phường Hồng Gai đã lắp rào chắn lối lên, tạm ngăn không cho du khách leo núi. Vào đầu tháng 02/2023, thành phố Hạ Long đã có kế hoạch và phương án để khai thác, tổ chức tuyến tham quan núi Bài Thơ.
- Vịnh Hạ Long
- Hang Đầu Gỗ
- Hang Sửng Sốt
Liên kết bên ngoài
- Bài thơ Núi trên trang web của Hạ Long Lưu trữ ngày 29 tháng 09 năm 2006 trên Wayback Machine


Du lịch Quảng Ninh | ||
---|---|---|
Miền Đông: từ Vân Đồn đến Móng Cái | Chùa Cái Bầu • Đảo Cô Tô • Đảo Cảnh Cước • Đảo Vĩnh Thực • Đình Lục Nà • Đình Quan Lạn • Đình Trà Cổ • Mũi Sa Vĩ • Mũi Ngọc • Vườn quốc gia Bái Tử Long
| |
Trung tâm đô thị Hạ Long và Cẩm Phả | Bãi Cháy • Bảo tàng Quảng Ninh • Chùa Lôi Âm • Đảo Tuần Châu • Đền Cửa Ông • Hồ Yên Lập • Núi Bài Thơ • Sun World Halong Complex • Suối khoáng Quang Hanh • Vịnh Hạ Long (Đảo Ti Tốp • Hang Đầu Gỗ • Hang Luồn Bồ Hòn • Hang Sửng Sốt)
| |
Miền Tây: từ Quảng Yên đến Đông Triều | Chùa Ba Vàng • Khu di tích lịch sử Bạch Đằng • Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử • Khu di tích nhà Trần tại Đông Triều • Thác Mơ Quảng Yên
| |
Đặc sản ẩm thực | Bánh mì mỏ • Bánh gật gù • Bề bề • Cá song • Cà sáy Tiên Yên • Chả mực • Gà Tiên Yên • Hà • Khau nhục • Lợn Móng Cái • Ngán • Sái sùng • Sam
| |
Giao thông | Cảng Hòn Gai • Cầu Bãi Cháy • Cửa khẩu Móng Cái • Đường cao tốc Hải Phòng – Hạ Long – Vân Đồn – Móng Cái • Ga Hạ Long • Quốc lộ 18 • Sân bay quốc tế Vân Đồn | |
Du lịch Việt Nam 7 khu du lịch quốc gia • An Giang • Bà Rịa – Vũng Tàu • Bạc Liêu • Bắc Giang • Bắc Kạn • Bắc Ninh • Bến Tre • Bình Dương • Bình Định • Bình Phước • Bình Thuận • Cà Mau • Cần Thơ • Cao Bằng • Đà Nẵng • Đắk Lắk • Đắk Nông • Điện Biên • Đồng Nai • Đồng Tháp • Gia Lai • Hà Giang • Hà Nam • Hà Nội • Hà Tĩnh • Hải Dương • Hải Phòng • Hậu Giang • Hòa Bình • Thành phố Hồ Chí Minh • Hưng Yên • Khánh Hòa • Kiên Giang • Kon Tum • Lai Châu • Lạng Sơn • Lào Cai • Lâm Đồng • Long An • Nam Định • Nghệ An • Ninh Bình • Ninh Thuận • Phú Thọ • Phú Yên • Quảng Bình • Quảng Nam • Quảng Ngãi • Quảng Ninh • Quảng Trị • Sóc Trăng • Sơn La • Tây Ninh • Thái Bình • Thái Nguyên • Thanh Hóa • Thừa Thiên Huế • Tiền Giang • Trà Vinh • Tuyên Quang • Vĩnh Long • Vĩnh Phúc • Yên Bái |