
Dolomit | |
---|---|
Dolomit và magnesit – Tây Ban Nha | |
Thông tin chung | |
Thể loại | Khoáng vật cacbonat |
Công thức hóa học | CaMg(CO3)2 |
Phân loại Strunz | 05.AB.10 |
Hệ tinh thể | Hệ tinh thể ba phương |
Nhóm không gian | Hình hộp mặt thoi 3 phương 3 |
Ô đơn vị | a = 4.8012(1) Å, c = 16.002 Å; Z = 3 |
Nhận dạng | |
Màu | Trắng, xám đến hồng |
Dạng thường tinh thể | Tinh thể hình khối, thường có các mặt cong, có thể ở dạng cột, thạch nhũ, khối hạt, khối lớn. |
Song tinh | Thường ở dạng song tinh tiếp xúc đơn giản |
Cát khai | Hoàn hảo ở mặt {1011}, cát khai hình hộp mặt thoi |
Vết vỡ | Vết vỡ vỏ sò |
Độ bền | Giòn |
Độ cứng Mohs | 3.5 đến 4 |
Ánh | Ánh thủy tinh đến ánh ngọc trai |
Màu vết vạch | Trắng |
Tỷ trọng riêng | 2.84–2.86 |
Thuộc tính quang | Đơn trục (-) |
Chiết suất | nω = 1.679–1.681 nε = 1.500 |
Khúc xạ kép | δ = 0.179–0.181 |
Độ hòa tan | Tan ít trong dung dịch HCl loãng trừ khi ở dạng bột. |
Các đặc điểm khác | Có thể phát huỳnh quang trắng đến hồng dưới tia tử ngoại; phát quang do ma sát. |
Tham chiếu |
Đô-lô-mít /ˈdɒləmaɪt/ là một loại đá trầm tích cacbonat cũng như một khoáng vật. Công thức hóa học của tinh thể là CaMg(CO3)2.
Đá đô-lô-mít được tạo thành chủ yếu từ khoáng vật đô-lô-mit. Đá vôi được thay thế một phần bởi đô-lô-mit được gọi là đá vôi đô-lô-mit. Đô-lô-mit được mô tả lần đầu vào năm 1791 bởi nhà tự nhiên học và địa chất người Pháp, Déodat Gratet de Dolomieu (1750–1801) cùng với việc phát hiện dãy núi Dolomite Alps ở phía bắc Ý.
Đặc tính

Khoáng vật đô-lô-mít kết tinh trong hệ tinh thể ba chiều. Nó tạo thành tinh thể màu trắng, xám đến hồng, thường có hình cong mặc dù thường có dạng khối. Nó có tính chất vật lý tương tự như tinh thể canxi, nhưng không tan nhanh trong dung dịch HCl loãng ngoại trừ khi ở dạng bột. Độ cứng là 3,5 đến 4 và tỉ trọng là 2,85. Chiết suất nω = 1,679 – 1,681 và nε = 1,500. Tuy nhiên, nó phổ biến khá ít. Trong thiên nhiên, có hỗn hợp rắn giữa đô-lô-mít và ankerit giàu sắt. Một lượng nhỏ sắt trong cấu trúc làm cho tinh thể có màu vàng đến nâu. Mangan có thể thay thế trong cấu trúc tinh thể, lên đến 3% MnO. Hàm lượng mangan cao có thể làm cho tinh thể màu hồng. Nó có thể hình thành dải khoáng vật với kutnohorit giàu mangan. Chì và kẽm cũng có thể thay thế magnesi trong cấu trúc tinh thể.
Hình thành
Rất nhiều mỏ dolomit có thể được tìm thấy trong niên đại địa chất, tuy nhiên, khoáng vật này hiếm khi được tìm thấy trong môi trường hiện đại. Việc tạo ra dolomit nhân tạo trong phòng thí nghiệm đã được thực hiện, nhưng chỉ dưới điều kiện nhiệt độ cao hơn 100 độ C (điều kiện phổ biến trong các hồ chứa trầm tích chôn vùi), mặc dù nhiều dolomit trong các ghi chép địa chất có vẻ như đã hình thành dưới điều kiện nhiệt độ thấp hơn. Nhiệt độ cao có vẻ như làm tăng tốc độ di chuyển của ion calci và magnesi, do đó chúng có thể nằm ở các vị trí phù hợp trong cấu trúc tinh thể trong một khoảng thời gian ngắn. Điều này cho thấy dolomit hiện nay ít được hình thành, có thể do các yếu tố động lực của phân tử, chẳng hạn như nhiệt độ.
Đô-lô-mít vẫn có thể tồn tại dưới dạng khoáng vật kết tủa trong những môi trường đặc biệt trên mặt đất ngày nay. Vào những năm 1950 và 1960, dolomit được phát hiện hình thành trong các hồ nước mặn ở vùng Coorong ở Nam Úc. Tinh thể đô-lô-mít cũng xuất hiện trong các trầm tích sâu dưới đại dương, nơi có hàm lượng hữu cơ cao.
Các nghiên cứu gần đây đã phát hiện đô-lô-mít hình thành dưới điều kiện khí khí ở các phá nước mặn dọc bờ biển Rio de Janeiro ở Brasil. Một trường hợp thú vị là sự hình thành của đô-lô-mít trong thận của một con chó Dalmatian. Điều này được cho là do các quá trình hóa học do vi khuẩn gây ra. Đô-lô-mít có thể được hình thành trong những điều kiện này do tương tác của các loại vi khuẩn khử sulfat.
Hiện nay, cơ chế hình thành dolomit bởi vi khuẩn đang được nghiên cứu sâu hơn.
Dolomit được hình thành dưới nhiều điều kiện môi trường khác nhau và có thể có các đặc điểm cấu trúc, cấu tạo và hóa học khác nhau. Dolomit ngày nay được tìm thấy khác biệt so với các mẫu trong các ghi chép địa chất, dẫn đến giả thuyết rằng môi trường hình thành dolomit trong quá khứ có nhiều sự khác biệt so với hiện tại.
Trong suốt một thời gian dài, các nhà khoa học đã gặp nhiều khó khăn trong việc tổng hợp dolomit nhân tạo. Tuy nhiên, vào năm 1999, thông qua quá trình xen kẽ giữa hòa tan và tái kết tủa, một lượng nhất định dolomit đã được sản xuất trong điều kiện nhiệt độ và áp suất thấp.
Đảo san hô ngầm
Quá trình biến đổi dolomit từ calcit cũng xảy ra ở một độ sâu nhất định trên các đảo san hô, nơi nước bão hòa với calci carbonat nhưng bão hòa với dolomit. Sự tác động của thủy triều và dòng biển gia tăng sự thay đổi này. Ngoài ra, các dòng nhiệt dịch từ núi lửa ở các đảo san hô ngầm cũng đóng vai trò quan trọng.




Sử dụng
Dolomit được dung làm đá trang trí, hỗn hợp xi măng, là nguồn magnesi oxit và trong quá trình Pidgeon để sản xuất magnesi. Nó là một loại đá trữ dầu quan trọng. Dolomit đôi khi được dung làm phụ gia trong luyện kim. Lượng lớn dolomite được dung trong việc sản xuất thủy tinh.
Trong nghệ thuật trồng hoa, dolomit và đá vôi dolomit được sử dụng để làm giảm độ axit trong đất và cung cấp magnesi cho cây trồng.
- Danh sách các loại khoáng vật

Các trầm tích | ||
---|---|---|
Trầm tích rời |
| |
Đá trầm tích |
|