Đoàn Thị Điểm 段氏點 | |
---|---|
Tên hiệu | Hồng Hà nữ sĩ (紅霞女士) |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 1705 |
Nơi sinh | làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (nay thuộc thôn Giai Phạm, xã Giai phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) |
Mất | |
Ngày mất | (Âm lịch) 11 tháng 9, 1748 (43 tuổi) |
Nơi mất | Nghệ An |
Giới tính | nữ |
Gia quyến | |
Thân phụ | Đoàn Doãn Nghi |
Phu quân | Nguyễn Kiều |
Nghề nghiệp | nhà văn, nhà thơ, ca sĩ |
Quốc gia | Đại Việt |
Quốc tịch | Việt Nam |
Thời kỳ | Lê trung hưng |
Tác phẩm | Truyền kỳ tân phả, Chinh phụ ngâm khúc diễn ca (dịch) |
Truy phong | |
Nơi thờ tự | |
Nhà lưu niệm Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm tại thôn Giai Phạm, xã Giai Phạm, huyện Yên Mĩ, tỉnh Hưng Yên | |
[sửa trên Wikidata] |
Đoàn Thị Điểm (1705-1749), tự là Hồng Hà Nữ Sĩ, là một nữ sĩ nổi bật thời Lê trung hưng. Bà nổi tiếng với tác phẩm Truyền kỳ tân phả (chữ Hán) và bản dịch thơ Chinh phụ ngâm (bản chữ Nôm, 412 câu thơ) từ nguyên tác Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn. Đoàn Thị Điểm còn sáng tác tập thơ Nữ trung tùng phận gồm 1401 câu và bài thơ Bộ bộ thiềm-Thu từ (步步蟾-秋詞, tức Bộ bộ thiềm- Bài hát mùa thu). Nhiều bài thơ văn khác của bà (bao gồm chữ Hán và chữ Nôm) được ghi chép trong tập Hồng Hà phu nhân di văn, do tiến sĩ Nguyễn Kiều phát hiện gần đây.
Được ca ngợi là một trong những nữ sĩ tài sắc vẹn toàn, Đoàn Thị Điểm đứng ngang hàng với các tên tuổi như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và Xuân Quỳnh.
Cuộc đời
Đoàn Thị Điểm sinh ra tại làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).
Theo gia phả Đoàn thị thực lục, tổ tiên của Đoàn Thị Điểm từng mang họ Lê, nhưng cha bà là Đoàn Doãn Nghi (1678-1729) đã chuyển sang họ Đoàn. Ông Doãn Nghi đỗ Hương cống thời Lê Trung Hưng, nhưng sau khi không đỗ thi Hội, ông chỉ giữ chức quan Điển bạ hàm bát phẩm một thời gian ngắn rồi từ quan về nhà dạy học và bốc thuốc. Tại Thăng Long, ông kết hôn với một phụ nữ họ Vũ và có hai người con: Đoàn Doãn Luân (1700 - 1735) và Đoàn Thị Điểm.
Đoàn Doãn Luân được ghi nhận là Giải nguyên trong kỳ thi Hương xứ Kinh Bắc, nhưng có một số thông tin trái ngược về kết quả thi của ông. Theo GS. Thanh Lãng và Thái Vũ, ông đỗ đầu kỳ thi Hương xứ Kinh Bắc, trong khi một số nguồn khác ghi nhận ông là Đỗ Hoàng Giáp năm 1719, có thể là nhầm lẫn với Nguyễn Trác Luân. Đoàn Doãn Luân, còn được gọi là Đoàn Trác Luân, được xem là một trong Trường An Tứ hổ cùng với Nguyễn Tông Quai, Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Bá Lân. Dù có thành tích cao, ông chỉ làm quan trong thời gian ngắn rồi về dạy học và qua đời năm 1735. Con gái đầu của ông, Đoàn Lệnh Khương, cũng nổi tiếng và tiếp nối nghề dạy học của gia đình.
Trước khi đến Thăng Long, Đoàn Doãn Nghi đã có một vợ họ Nguyễn (qua đời sớm), sinh ra con trai cả là Đoàn Doãn Sỹ, đỗ Hương Cống và làm quan chi phủ Châu Hoan ở Nghệ An, cùng một con gái là Đoàn Thị Quỳnh. Tuy nhiên, gia phả của Đoàn Thị Điểm do con rể của Đoàn Doãn Y (con trai của Đoàn Doãn Luân) viết, nên thông tin về gốc họ chưa được đầy đủ. Thực tế, tổ tiên của Đoàn Thị Điểm trước khi chuyển sang họ Lê là họ Đoàn. Tổ tiên của bà, Lê Công Nẩm, là một quan võ có công với Nhà Lê.
Khi còn trẻ, Đoàn Thị Điểm nổi tiếng với trí thông minh, sắc đẹp và tài năng văn chương. Năm 16 tuổi, bà được Thượng thư Lê Anh Tuấn nhận làm con nuôi để dâng lên chúa Trịnh, nhưng bà đã từ chối lời đề nghị này.
Trong suốt thời thơ ấu và tuổi trưởng thành, Đoàn Thị Điểm sống với cha và anh trai tại làng Lạc Viên, huyện An Dương, tỉnh Kiến An (hiện nay là Hải Phòng), nơi cha bà dạy học.
Khi Đoàn Thị Điểm 25 tuổi (năm 1729), cha bà qua đời, và gia đình bà phải chuyển đến sinh sống tại làng Vô Ngại, huyện Đường Hào (hiện nay là thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên).
Không lâu sau, anh trai bà qua đời vào năm 1735, để lại nhiều đứa trẻ nhỏ. Đoàn Thị Điểm phải gánh vác việc dạy học và chữa bệnh để kiếm sống, nuôi mẹ và giúp đỡ chị dâu chăm sóc các cháu.
Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, vào thời điểm đó, có tin Đoàn Thị Điểm được triều đình mời vào cung làm Giáo thụ dạy dỗ các hoàng tử. Đến năm 1739, khi tình hình đất nước bất ổn, bà từ chức và trở về xã Chương Dương (nay thuộc Thường Tín, ngoại thành Hà Nội) tiếp tục công việc dạy học.
Lúc bấy giờ, nhiều người, kể cả những nhân vật quyền quý, đến cầu hôn bà, nhưng bà đều từ chối. Mãi đến năm 37 tuổi (1742), bà mới đồng ý kết hôn với Nguyễn Kiều, một Tiến sĩ nổi tiếng, nhưng ông phải đi sứ Trung Quốc trong ba năm. Trong thời gian ông vắng mặt, bà đã dịch tập thơ Chinh phụ ngâm từ bản chữ Hán của Đặng Trần Côn sang quốc âm theo Từ điển văn học (bộ mới).
Năm 1745, Nguyễn Kiều trở về nước. Năm 1748, ông được cử làm Tham thị ở Nghệ An. Đoàn Thị Điểm cùng chồng đi đến đó, nhưng trên đường đi, bà mắc bệnh nặng và qua đời vào ngày 11 tháng 9 (âm lịch) năm Mậu Thìn (1748), khi bà 43 tuổi.
Xót thương trước sự ra đi của người bạn đời, Nguyễn Kiều đã viết một bài văn tế, ca ngợi tài năng văn chương và phẩm hạnh của bà. Trong bài văn tế có đoạn:
- Đào chưa chín đã tàn
- Quế chưa dậy đã héo
- Rừng sâu biển rộng, nàng ơi, đâu mất rồi
- Ngọc vỡ châu chìm, lòng tôi quặn thắt nhớ thương...
Đoàn Thị Điểm được Đạo Cao Đài coi như một hiện thân của Tứ Nương từ Cung Diêu Trì.
Công trình văn học
Theo Đoàn thị thực lục, trong suốt cuộc đời, bà thường xuyên giao lưu thơ ca với cha, anh và chồng. Tuy nhiên, hiện nay, các tác phẩm của bà chỉ còn lại tập truyện chữ Hán mang tên Truyền kỳ tân phả (được khắc in lần đầu năm Tân Mùi, 1811), bài thơ Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, và một số bài thơ, văn (cả chữ Hán và chữ Nôm) trong tập Hồng Hà phu nhân di văn mới được phát hiện gần đây, nhưng có nhiều sai sót trong các tác phẩm này.
Bà còn để lại tập thơ Nữ trung tùng phận với 1401 câu thơ (được viết sau khi bà qua đời) và bài thơ Bộ bộ thiềm-Thu từ - 步步蟾-秋詞 (tức Bộ bộ thiềm - Bài hát mùa thu).
Về bản dịch Chinh phụ ngâm của bà, hiện tại chưa có sự xác định rõ ràng. Một số người cho rằng đây là bản dịch phổ biến hiện nay, trong khi có ý kiến khác cho rằng bản đó thuộc về Phan Huy Ích, và bản của Đoàn Thị Điểm là bản khác. Một số ý kiến khác cho rằng Phan Huy Ích (1751-1822), sau khi từ quan, chủ yếu chỉ tập trung vào nghiên cứu và hiệu đính các điển tích trong tác phẩm. Theo GS. Nguyễn Lộc, “có thể khẳng định rằng bản dịch của Đoàn Thị Điểm (1705-1748) là bản dịch đầu tiên của tác phẩm này”.
Bản dịch của Phan Huy Ích (được gọi là Chinh phụ ngâm diễn ca tân khúc) được viết khoảng 70 năm sau bản của Đoàn Thị Điểm (ban đầu có tên là Chinh phụ ngâm khúc diễn ca). Bản Chinh phụ ngâm hiện nay được biết đến rộng rãi là bản 'Chinh phụ ngâm khúc diễn ca' (được đưa vào sách giáo khoa Văn học lớp 10) (tham khảo thêm bài viết tại đây).
Giai thoại
1. Đối sách, đối sử:
Khi cô Điểm mới 6 tuổi và đang học Sử Ký Trung Hoa, anh trai Đoàn Doãn Luân đã lấy một câu trong Sử Ký để làm câu đối:
- 'Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi'
(tức là 'Rắn trắng giữa đường, Ông Quý (Lưu Bang) rút gươm chém')
Cô Điểm nhanh chóng đáp lại bằng một câu đối khác cũng từ Sử Ký:
- 'Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết'
(có nghĩa là: 'Rồng vàng đội thuyền, Ông Vũ (Hạ Vũ) ngẩng lên trời mà than').
2. Đối chữ, đối cảnh:
Có một lần, khi thấy Đoàn Thị Điểm đang ngồi trước gương, Đoàn Doãn Luân đã đưa ra một câu đối:
- 'Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm'
(tức là 'soi gương vẽ mày, một nét biến thành hai nét'; tuy nhiên, từ 'điểm' không chỉ là một nét vẽ mà còn là tên của bà Điểm, do đó còn có nghĩa là một bà Điểm biến thành hai bà Điểm).
Khi ông Luân đang ngồi trên cầu ao rửa tay, bà liền đưa ra câu đối:
- 'Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân'
(có nghĩa là 'ra ao ngắm trăng, một vầng trăng biến thành hai vầng trăng'; nhưng từ 'luân' cũng là tên của ông Luân, nên còn mang ý nghĩa một ông Luân biến thành hai ông Luân).
Thêm vào đó, trong dân gian còn lưu truyền một số câu đối như 'Da trắng vỗ bì bạch' (đối lại với Cống Quỳnh), 'Hổ thật thành hổ giấy' (đối lại với Tràng An tứ hổ), 'Trượng phu Bắc quốc' (đáp lại sứ thần Trung Quốc), và nhiều chuyện thú vị khác.
Các tác phẩm nổi bật của Đoàn Thị Điểm
Nhiều tuyến phố và trường học trên toàn quốc đã được đặt tên để vinh danh bà, bao gồm các thành phố như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Hưng Yên, Pleiku (Gia Lai), Đà Lạt (Lâm Đồng), Nha Trang (Khánh Hoà), Hội An (Quảng Nam), Cần Thơ, Vị Thanh (Hậu Giang), Vũng Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu), Hạ Long (Quảng Ninh) và Quảng Ngãi.
Thông tin liên quan
Trước đây, mộ của Tiến sĩ Nguyễn Kiều, chồng của Đoàn Thị Điểm, nằm tại Vườn Đào (phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội). Để phục vụ việc thi công công trình công cộng, Hội Khảo cổ học Việt Nam đã phối hợp với Ban Quản lý Di tích Danh thắng Hà Nội khai quật khẩn cấp ngôi mộ vào ngày 24 tháng 7 năm 2011. Ông được đưa về an táng cùng mộ bà tại thôn Phú Xá (nay là cụm 4, phường Phú Thượng), sau '259 năm xa cách'. Hiện tại, bà Nguyễn Thị Sơn đang phụ trách việc chăm sóc phần mộ của nữ sĩ và chồng Nguyễn Kiều.

- Nguyễn Kiều
- Truyền kỳ tân phả
- Chinh phụ ngâm
Sách tham khảo
- Các tác giả soạn, Từ điển bách khoa Việt Nam (Tập I), mục từ Đoàn Thị Điểm. Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 1995.
- Trần Văn Giáp, tiểu sử 'Đoàn Thị Điểm' trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2003.
- Nguyễn Lộc, mục từ Đoàn Thị Điểm và 'Chinh phụ ngâm' trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, mục từ 'Đoàn Thị Điểm' và 'Đoàn Doãn Luân'. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
- Nguyễn Thạch Giang, Văn học thế kỷ XVIII, mục 'Đoàn Thị Điểm'. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2004.
- Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (Quyển I, mục từ 'Đoàn Thị Điểm'), Sài Gòn, 1966.
- Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển 2, mục 'Đoàn Thị Điểm'). Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1963.
- Thanh Lãng, Bản lược đồ văn học Việt Nam (Quyển Thượng). Nhà xuất bản Trình Bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
- Trúc Khê, truyện 'Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm' trong Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2003.
- Thái Vũ, truyện 'Đoàn Thị Điểm' trong Chuyện hay nhớ mãi. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1987.
Chú thích
- Đặng Trần Côn
- Nguyễn Kiều
- Thơ văn của Đặng Trần Côn