Phần trích này là lời thương thân xót phận và sâu sắc về nhân cách, được lấy từ tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Dưới đây là thông tin giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và nội dung của đoạn trích 'Nỗi thương mình'. Mong rằng sẽ hữu ích cho các bạn học sinh khi nghiên cứu về tác phẩm này.
Nỗi thương mình
Biết bao bướm lả ong lơi!
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương?
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!
Đôi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
I. Vài nét về tác giả Nguyễn Du
1. Cuộc đời
- Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên thường gọi là Tố Như, nghệ danh là Thanh Hiên.
- Tổ tiên của Nguyễn Du từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay là Hà Nội), sau đó chuyển đến xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
- Nguyễn Du có cha là Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775) và mẹ là Trần Thị Tần (1740 - 1778).
- Vợ của Nguyễn Du là con gái của Đoàn Nguyễn Thục, người quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay thuộc Thái Bình).
- Nguyễn Du may mắn được tiếp nhận truyền thống văn hóa từ nhiều vùng miền khác nhau.
- Trong thời thơ ấu và niên thiếu, Nguyễn Du sống ở Thăng Long trong một gia đình quý tộc.
- Lúc 10 tuổi, Nguyễn Du mất cha.
- Lúc 13 tuổi, Nguyễn Du mất mẹ và chuyển đến sống cùng người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.
- Trong thời gian này, Nguyễn Du hiểu biết về cuộc sống xa hoa, phong lưu của giới quý tộc phong kiến, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến sáng tác sau này của ông.
- Năm 1783, Nguyễn Du thi đỗ tam trường và được tập ấn nhận một chức quan nhỏ ở Thái Nguyên.
- Từ năm 1789, Nguyễn Du trải qua hơn chục năm sống khó khăn ở vùng nông thôn khác nhau, điều này đã giúp ông hiểu biết sâu hơn về xã hội và con người, từ đó phát triển tài năng văn chương của mình.
- Sau một thời gian gian khổ sống ở nhiều vùng quê khác nhau, vào năm 1802, Nguyễn Du gia nhập vào ban quan của triều Nguyễn.
- Năm 1802, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện tại Phù Dung (nay là Khoái Châu, Hưng Yên), sau đổi sang làm Tri phủ tại Thường Tín (nay là Hà Nội).
- Từ năm 1805 đến 1809, ông được thăng chức lên làm Đông Các điện học sĩ.
- Năm 1809, Nguyễn Du được bổ nhiệm làm Cai bạ dinh tại Quảng Bình.
- Năm 1813, ông tiếp tục thăng chức lên làm Cần Chánh điện học sinh và được gửi về Trung Quốc làm Chánh sứ.
- Khi sang Trung Quốc, Nguyễn Du tiếp tục được tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa mà ông đã quen thuộc từ thuở nhỏ.
- Vào năm 1820, ông được chỉ định làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng trước khi kịp bắt đầu hành trình, ông đã qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm 1820.
- Năm 1965, Nguyễn Du đã được Hội đồng Hòa bình Thế giới công nhận là danh nhân văn hóa toàn cầu.
2. Sự nghiệp văn học
a. Các tác phẩm chính
* Nguyễn Du đã sáng tác 249 bài thơ bằng chữ Hán trong các giai đoạn khác nhau.
- Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) bao gồm 78 bài viết chủ yếu được sáng tác trước khi gia nhập nhà Nguyễn làm quan.
- Trong tập thơ này, có 40 bài thuộc loại Nam trung tạp ngâm, được viết trong thời gian Nguyễn Du phụ trách ở Huế và Quảng Bình, các vùng đất ở phía nam của quê hương Hà Tĩnh.
- Bắc hành tạp lục (Ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ được sáng tác trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
=> Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện rõ tư tưởng, tình cảm và nhân cách của ông.
* Nguyễn Du đã viết hai tác phẩm bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) và Văn chiêu hồn.
b. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn thơ của Nguyễn Du
* Đặc điểm về nội dung:
- Tác giả thể hiện tình cảm chân thành và sự đồng cảm sâu sắc đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những người phụ nữ bất hạnh và nhỏ bé.
- Nguyễn Du đã đề cập đến một vấn đề mới mẻ và quan trọng trong văn học: cần phải tôn trọng những giá trị tinh thần và người tạo ra chúng.
- Trong sáng tác của Nguyễn Du, cũng được tôn vinh sự hạnh phúc tự nhiên và trần thế của con người.
=> Nguyễn Du là một trong những tác giả đại diện cho trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX.
* Đặc điểm về nghệ thuật
- Nguyễn Du sử dụng nhiều thể thơ phong phú như ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật và ca, hành (nhạc phủ)...
- Ông đã đóng góp vào việc phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc bằng cách làm phong phú tiếng Việt thông qua việc Việt hóa các yếu tố ngôn ngữ ngoại nhập.
II. Giới thiệu về đoạn trích Nỗi thương mình
1. Vị trí của đoạn trích
- Đoạn trích “Nỗi thương mình” được lấy từ câu 1229 đến câu 1248.
- Nội dung: Sau khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến nhà chứa của mụ Tú Bà, Kiều dũng cảm phản kháng ý định biến cô thành kỹ nữ, nhưng cuối cùng, cô vẫn bị lừa vào bẫy của Tú Bà, buộc phải đón tiếp khách. Đoạn trích này mô tả cảnh Kiều đối mặt với tình huống trớ trêu và thể hiện sự đau xót cho số phận của bản thân.
2. Cấu trúc
Bao gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “ Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh ”: Bức tranh về cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu xanh
- Phần 2. Tiếp theo đến “ Những mình nào biết có xuân là gì ”. Sự đau lòng vì số phận của Thúy Kiều.
- Phần 3. Phần còn lại. Đánh giá về cảnh và tình, từ đó thể hiện tâm trạng của Kiều.
3. Bản chất
Đoạn trích “Nỗi thương mình” đã phản ánh niềm thương và đau lòng về số phận cũng như nhận thức cao về nhân cách của Thúy Kiều.
4. Nghệ thuật Sáng tạo
Sử dụng kỹ thuật đối xứng, hình ảnh đẹp mắt, và sử dụng các tình tiết kinh điển…