Doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa thường được gọi là doanh nghiệp vừa và nhỏ, là những doanh nghiệp có quy mô vốn, lao động hoặc doanh thu nhỏ. Chúng được phân thành ba loại: doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ có dưới 10 lao động, doanh nghiệp nhỏ có từ 10 đến dưới 200 lao động và vốn dưới 20 tỷ, còn doanh nghiệp vừa có từ 200 đến 300 lao động và vốn từ 20 đến 100 tỷ. Mỗi quốc gia có tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tại Việt Nam, theo Điều 6, Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/03/2018 của Chính phủ, quy định:
1. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
2. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không thuộc loại doanh nghiệp siêu nhỏ theo khoản 1 Điều này.
Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có dưới 50 lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân mỗi năm và tổng doanh thu không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và công nghiệp, xây dựng có dưới 200 lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân mỗi năm và tổng doanh thu không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.
Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có dưới 100 lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân mỗi năm và tổng doanh thu không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.
Vai trò
Trong mỗi nền kinh tế quốc gia hoặc lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể đảm nhận những vai trò khác nhau, tuy nhiên có một số vai trò chung như sau:
- Đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí là áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở Việt Nam chỉ tính các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này lên đến trên 95%). Đó là lý do tại sao đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm rất đáng kể.
- Đóng vai trò ổn định nền kinh tế: ở hầu hết các nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường là nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Việc điều chỉnh hợp đồng thầu phụ vào các thời điểm nhất định giúp nền kinh tế có được sự ổn định. Do đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa được xem là yếu tố ổn định cho nền kinh tế.
- Làm cho nền kinh tế trở nên năng động: với quy mô nhỏ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng điều chỉnh hoạt động của họ (ít nhất là trong lý thuyết).
- Tạo ra các ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường tập trung vào sản xuất các thành phần nhỏ được sử dụng để lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh.
- Là trụ cột của kinh tế địa phương: trong khi các doanh nghiệp lớn thường đặt trụ sở ở các trung tâm kinh tế quốc gia, các doanh nghiệp nhỏ và vừa phân bố rộng khắp các địa phương và có vai trò quan trọng trong việc đóng góp vào ngân sách địa phương, sản lượng và tạo ra việc làm tại địa phương.
- Đóng góp không nhỏ vào giá trị GDP của quốc gia.
Hỗ trợ chính sách cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Với vai trò quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhiều quốc gia đã tập trung vào việc khuyến khích phát triển loại hình này. Các biện pháp hỗ trợ chính sách bao gồm: tạo môi trường kinh doanh thuận lợi (ban hành các luật dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, giải quyết vấn đề cấp phép, cung cấp thông tin, vv...), đào tạo năng lực cho doanh nghiệp (đào tạo nguồn lực quản lý, hỗ trợ công nghệ, vv...), hỗ trợ tín dụng (thành lập các ngân hàng dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp, thành lập các công ty đầu tư rủi ro, vv...) và các hỗ trợ khác (như vấn đề mặt bằng kinh doanh). Hiện nay, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 96,7% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp đến 40% tổng sản phẩm quốc nội và tạo ra hơn 1 triệu việc làm mới mỗi năm, chủ yếu hưởng lợi cho lao động chưa qua đào tạo. Trong những năm tiếp theo, doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn sẽ là động lực chính cho kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, phải nhận thức được rằng, mặc dù vậy, nhóm này vẫn phát triển chậm trong các lĩnh vực ít lợi nhuận, công nghệ thấp do không có lợi thế về quy mô (tài chính, vị trí hoạt động, thị phần...) và thường tập trung vào việc lựa chọn mục tiêu kinh doanh phù hợp, ổn định và tăng cường thị phần đã có hoặc phát triển thị trường từng bước và tập trung vào những khâu, điểm đột phá thuận lợi nhất. Doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn phải tự vận động và liên kết để hợp tác kinh doanh mặc dù chính sách nhà nước chưa rõ ràng.