Ông đã trình lên vua Tự Đức nhiều bản điều trần có giá trị, tập trung vào Tế cấp bát điều, nhưng tiếc là những đề nghị của ông không được chấp nhận.
2. Tế cấp bát điều là bản điều trần thứ 27 của Nguyễn Trường Tộ. Bản điều trần thể hiện tài năng và tư tưởng tiến bộ của ông. Trong bản điều trần này, ông chỉ ra tám công việc cần làm gấp để cải cách đất nước, thể hiện suy nghĩ sắc sảo và tầm nhìn xa trông rộng của ông.
3. Đoạn Xin lập khoa luật đã đưa ra những lí do rất chính đáng về việc cần thiết mở khoa luật để dạy cho người Việt Nam. Văn bản đã thể hiện tài năng và lòng nhiệt huyết của tác giả đối với đất nước.
Đọc từ từ, làm sáng tỏ các lập luận của tác giả.
II - Kiến thức cơ bản
Lập luận về việc thành lập khoa luật là một bài luận có cấu trúc chặt chẽ, lập luận sắc sảo, logic chi tiết, đầy sức thuyết phục. Bài luận đã đưa ra những lý do khẳng định việc lập khoa luật là rất cần thiết.
Phần 1, tác giả liệt kê các nội dung của luật để khẳng định tính bao quát của luật đối với xã hội và vai trò của luật trong việc trị dân của vua. Luật bao gồm: “kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia, trong đó tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đều đầy đủ”. Có nghĩa là luật bao trùm cả vấn đề đạo đức và trách nhiệm. Cũng ở đây, tác giả chỉ ra tác dụng của luật: “Quan dùng luật để trị; dân theo luật mà giữ gìn”. Tác giả cũng đề cập đến vấn đề dân chủ trong việc thi hành luật pháp, chỉ có nhà nước pháp quyền mới đảm bảo nền dân chủ công bằng xã hội. Điểm tiến bộ của Nguyễn Trường Tộ là ông đã nhấn mạnh sự bình đẳng của luật pháp. Quan và dân, quân và thần đều bình đẳng trước pháp luật. Quan điểm của Nguyễn Trường Tộ có điểm tiến bộ rõ rệt so với tư tưởng pháp trị phong kiến là ông đã chú ý đến quyền lợi của nhân dân trước pháp luật.
Phần 2, tác giả khẳng định vai trò của luật. Ông chỉ ra rằng, lí thuyết của sách Nho “chỉ nói suông trên giấy”, đó là những lẽ phải nhưng không có đủ khả năng làm thay đổi tâm tính của mọi người, tự giác sửa mình. Ông đưa ra những nhược điểm của việc trị dân bằng lí thuyết nhà nho, không chỉ để phê phán sách Nho mà còn để khẳng định vai trò của luật đối với sự ổn định của xã hội. Nho giáo dục con người bằng chuẩn mực đạo đức, bằng những tấm gương đạo đức của quá khứ nên nặng tính lí thuyết suông. Cuối mỗi phê phán sách Nho, Nguyễn Trường Tộ dùng lời của Khổng Tử làm cho lập luận của ông thêm thuyết phục, đặc biệt là với những nhà nho bảo thủ.
Đoạn 3, Nguyễn Trường Tộ đã giải thích rõ vai trò của luật, đồng thời xử lý triệt để những nghi ngờ về hiệu quả của luật. Ông sử dụng lập luận để bác bỏ quan điểm “luật chỉ là phương tiện cai trị chứ không có tính đạo đức cao”. Ông khẳng định: “phạm luật là tội, tuân luật là đức”. Bằng lập luận rõ ràng, logic chi tiết, Nguyễn Trường Tộ đã thuyết phục mọi người về sự cần thiết của việc áp dụng luật để trị dân. Từ đó, ông khẳng định: Lập khoa luật để dạy dân hiểu luật là việc làm cấp bách.
Với tư duy tiến bộ và trách nhiệm cao, Nguyễn Trường Tộ đã chỉ rõ vai trò của pháp luật đối với sự ổn định của xã hội. Tư tưởng của ông, dù đã được đề cập từ hàng trăm năm trước, vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay.
III - Liên hệ
Văn chương của Nguyễn Trường Tộ là loại văn chính luận, vừa đảm bảo tính chặt chẽ, sắc bén, khúc chiết trong phân tích, trong đưa ra các ví dụ nhưng cũng vừa thấm đậm cảm hứng trữ tình của tác giả, nên có sức thuyết phục rất mạnh. Những lá thư điều trần của ông rất dài, thảo luận về nhiều vấn đề cùng một lúc, nhưng cách viết mạch lạc, trôi chảy, từng vấn đề được bàn kỹ lưỡng và rõ ràng, lại đều có chứng minh thực tiễn. Đây là bút pháp của một học giả chịu ảnh hưởng rõ rệt của tư duy logic phương Tây, và có thể nói đã đạt đến đỉnh cao trong loại văn chính luận, trữ tình, tránh những suy nghĩ lan man của nhà nho. Nguyễn Trường Tộ cũng không ngại phản đối những điều không hợp lý trong phương pháp luận của ông. Ông sử dụng hình thức đối thoại trong văn bản, đặt giả thuyết, đặt câu hỏi để lật lại vấn đề, và tự mình phản bác cặn kẽ những câu hỏi mà ông đưa ra, làm cho vấn đề trở nên sáng tỏ hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là ông đã nghị luận bằng tất cả nhiệt huyết và lòng tin vào chân lí. Ông gần như không chỉ có lập luận bằng lí trí mà trong lập luận còn thể hiện hết tấm lòng của mình. Phong cách văn chính luận – trữ tình này đã tạo nên một giọng điệu riêng, một sức hấp dẫn đặc biệt đối với đối tượng mà ông cần thuyết phục.
Mytour