I - Tổng quan
1. Trước năm 1858, Nguyễn Đình Chiểu viết để lan truyền và giáo dục đạo đức, nổi tiếng với tác phẩm thơ Truyện Lục Vân Tiên. Sau năm 1858, tác phẩm của ông thể hiện lòng yêu nước và dân tộc trước sự xâm lược, tôn vinh những anh hùng đã đứng lên chống giặc, bất kể họ là ai, tướng lĩnh, binh lính hay dân thường…
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, một giáo sư yêu nước, có trái tim cháy bỏng với dân tộc. Cuộc đời của ông là một biểu tượng về lòng trung hiếu và đạo đức. Mặc dù mắc bệnh mù loà, không thể tự mình cầm kiếm đánh giặc, nhưng Đồ Chiểu đã dùng bút của mình như một loại vũ khí sắc bén để đấu tranh chống lại kẻ thù. Ông luôn tôn vinh những người dũng cảm đã cầm kiếm đánh giặc và viết những bài văn cảm động về họ, như Thơ tưởng niệm Phan Tòng, Văn tưởng niệm anh hùng Cần Giuộc.
Thơ của Nguyễn Đình Chiểu mang đậm nét chất phác, giản dị và mang giá trị tư tưởng sâu sắc. Đó là những tác phẩm được viết theo quan điểm:
Bao nhiêu thuyền vượt sóng không đắm
Mấy kẻ xấu xa chẳng thể vươn
2. Truyện Lục Vân Tiên là một tác phẩm thơ, được viết dưới dạng thơ lục bát. Truyện thơ Nôm là một thể loại văn học đã phát triển mạnh mẽ trong lịch sử văn học Việt Nam vào thế kỉ XVIII – XIX. Đây là những thành tựu đáng tự hào của văn học dân tộc.
3. Đoạn trích này xuất hiện ở đoạn đầu của truyện, từ câu 473 đến câu 504 trong tổng số 2082 câu của truyện thơ. Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực đã kết nghĩa anh em, và cùng tới thủ đô dự thi. Họ dừng chân tại một quán trọ, ở đây, họ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm. Bốn người cùng nhau thi sáng tác thơ để trình bày tài năng. Thấy Tiên và Trực viết thơ nhanh và hay, Kiệm và Hâm tỏ ra nghi ngờ hai người có sao chép từ thơ cổ. Trước tình huống đó, ông quán thể hiện sự khinh bỉ đối với những người không có tài năng nhưng lại thích đố kị.
4. Đọc đoạn trích theo cách gieo vần của thơ lục bát. Lưu ý ngắt giọng giữa các câu (Quán nói :/…, Tiên nói :/…).
II - Nền tảng kiến thức
Truyện Lục Vân Tiên là một tác phẩm vĩ đại trong văn học Việt Nam. Tương tự như Truyện Kiều,
Đoạn trích Lẽ ghét thương (từ câu 473 đến câu 504 của tác phẩm) là lời của một nhân vật trong truyện, là ông Quán trong cuộc trò chuyện giữa ông và các nho sĩ trẻ tuổi. Quan điểm về tình yêu và sự căm ghét của ông Quán cũng là quan điểm của tác giả – nhà thơ, nhà văn, ông đồ Nguyễn Đình Chiểu.
Đoạn trích này được chia thành hai phần rõ ràng: một phần nói về những điều mà ông Quán ghét, và một phần kể về những điều ông Quán yêu thương. Từ ghét, thương ở đây không chỉ là cảm xúc đối với một cá nhân mà còn là biểu hiện của sự đồng cảm hoặc phản đối của người nói với những vấn đề được đề cập. Không chỉ là việc yêu thương hoặc căm ghét cá nhân mà còn là sự bày tỏ sự đồng cảm hoặc phản đối đối với các vấn đề được nói tới. Sự ghét thương được hiểu từ quan điểm của lợi ích của người dân.
Cấu trúc ngôn ngữ trong đoạn trích có vẻ đơn giản do sự lặp lại nhiều lần hình thức phản đối. Tuy nhiên, điều đó lại tạo ra hiệu ứng nghệ thuật trong việc thể hiện ý nghĩ tác giả. Việc lặp lại hình thức thay đổi sự việc và nhân vật trong mỗi câu thơ nhằm nhấn mạnh, khẳng định thái độ yêu ghét rõ ràng của nhà thơ. Để thể hiện thái độ ghét thương với từng đối tượng cụ thể, ông Quán có lời nhận xét tổng quát “Vì vậy, ghét cũng là thương”. Sự ghét và thương ở đây liên quan mật thiết với nhau. Thái độ “ghét” phát sinh từ sự “thương”. Nỗi ghét – thương là sự trăn trở của ông về cuộc sống, về cuộc sống của người lao động. Vì thương dân cực khổ lầm than, vì trân trọng những con người vì dân mà ghét những kẻ tàn bạo, vi phạm đạo lý, đẩy người dân vào cảnh khốn khổ lầm than.
Trước hết, tác giả thảo luận về “ghét”. Ông Quán ghét ai? Tại sao ông lại ghét họ. Với mỗi đối tượng, ông đều có lời giải thích rõ ràng. Không phải là ghét chung chung, mà là ghét điều cụ thể.
Quán nói “Ghét sự lừa lọc
Ghét đắng cay, ghét đầy tâm hồn.
Đối tượng ghét là các hành động trừu tượng cao, ghét tất cả những việc vô bổ, vô ích đối với dân và đất nước. Mọi thứ không mang lại ích lợi cho cuộc sống, có hại cho con người đều là điều đáng ghét, là điều xấu xa. Mức độ ghét rất dứt khoát, rõ ràng và quyết đoán. Điều này được thể hiện qua việc sử dụng từ ngữ, từ loại. Ba từ ghét được lặp lại trong câu thơ tám từ thể hiện thái độ rất quyết định. Đó là thái độ không khoan nhượng, không tha thứ đối với điều ác.
Những đối tượng tiếp theo được đề cập đều liên quan đến thái độ ghét của ông Quán và đều có điểm chung. Đó là những nhân vật nổi tiếng tàn ác, những triều đình nổi tiếng dối trá, xấu xa trong lịch sử Trung Quốc: Kiệt, Trụ mê dâm, U, Lệ đa đoan, Ngũ bá phân vân, thúc quý phân băng. Ý thơ rất cân đối trong cách kể. Trước tiên là hai cặp nhân vật nổi tiếng tàn ác trong lịch sử phong kiến Trung Hoa cổ đại, những vị vua tàn ác với danh tiếng liên quan đến những câu chuyện về sự độc ác không giới hạn. Tiếp theo là hai thời kỳ đen tối trong lịch sử Trung Quốc, những kẻ cầm quyền tranh giành quyền lực đẩy nhân dân vào nạn bạo lực. Một số say sưa với tiệc tùng, thưởng thức sa đoạ, trong khi khác cố gắng tranh giành quyền lực, nhưng tất cả họ đều gây ra một kết quả chung là đưa nhân dân vào cuộc sống cực kỳ khổ sở. Những điều mà ông Quán ghét không liên quan gì đến cuộc sống cá nhân của ông. Tóm lại, ông ghét những người làm nhân dân phải chịu khổ cực. Cả bốn đối tượng ông đều nhắc đến dân, nhắc đến những hậu quả mà nhân dân lao động phải gánh chịu: dân “sa hầm sẩy hang”, dân chịu “lầm than”, dân “vất vả” và “bận rộn bận rộn”. Bốn đối tượng cụ thể đó đã tóm gọn thành một đối tượng ghét rất tổng quát: ông ghét những người làm ngược lại lợi ích của dân.
Còn thái độ thương của ông thì sao? Ông thương những đối tượng nào? Thương không chỉ là sự đồng cảm mà ở đây thương là thái độ đồng cảm, tôn trọng của ông dành cho đối tượng. Ông không ghét những vấn đề không đáng kể nên cũng không nói về việc thương những điều bình thường.
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.
…
Đối tượng “thương” là những nhân vật cụ thể, thực tế trong lịch sử Trung Hoa. Đó là: Khổng Tử, Nhan Tử, Gia Cát, Đổng Tử, Đào Tiềm, Hàn Dũ, Liêm, Lạc. Họ đều là những con người nổi tiếng về tài năng và đạo đức. Họ đều chia sẻ một điểm chung, luôn cố gắng mang tài năng ra giúp đời nhưng lại gặp phải những khó khăn không ngờ. Dù có sự nghiệp lẫy lừng nhưng cuối cùng cũng không được hoàn thành. Nhưng tất cả họ đều có nhân cách cao quý, luôn thương yêu nhân dân, tuân thủ đạo đức và giữ vững phẩm cách của nhà nho. Đối tượng “thương” đều là những người tài năng và đạo đức toàn vẹn. Vì vậy, thái độ thương ở đây bao gồm cả sự cảm thông, trân trọng và kính phục của tác giả.
Nhà thơ đã mượn chuyện bàn luận về ghét thương, về lịch sử để thể hiện thái độ của mình đối với nhân dân. Việc ghét thương gắn chặt với quyền lợi của nhân dân lao động.
Tác giả đã sử dụng rất thành công các phương tiện ngôn ngữ như điệp từ, từ láy, thành ngữ, tiểu đối để thể hiện thái độ ghét thương rất rõ ràng, dứt khoát và quyết liệt của mình. Đặc biệt nhà thơ đã sử dụng rất hiệu quả biện pháp nghệ thuật điệp từ. Đó là từ ghét và từ thương. Đối tượng của “ghét” và “thương” thường đi theo cặp. “Kiệt, Trụ” và “U, Lệ” ; Ngũ bá và thúc quý. Đối tượng “thương” thì đa dạng hơn. Điều này cho thấy rõ hơn thái độ ghét thương rõ ràng, dứt khoát của ông Quán. Ông Quán dẫn dắt toàn bộ câu chuyện lịch sử Trung Quốc. Đó là những câu chuyện mà bất kỳ nhà nho nào cũng biết. Trong thời của các nhà nho như Nguyễn Đình Chiểu, những nhân vật và thời kỳ lịch sử đó đã trở nên rất quen thuộc và mang ý nghĩa tổng quát.
Mượn lời ông Quán, tác giả đã thể hiện quan điểm của một nhà nho chân chính. Nhà nho ấy tuy là đệ tử của trường Khổng Trình nhưng lại có tư tưởng rất tiến bộ. Đó là sự tiếp nối tư tưởng của Nguyễn Trãi như được thể hiện trong Bình Ngô đại cáo, đó là : “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Tiêu chuẩn để “ghét thương” ở đây là quyền lợi của nhân dân, mọi hành vi xâm phạm quyền lợi của họ đều đáng bị ghét, bị phê phán. Tác giả đã sử dụng hình thức đàm đạo về ghét thương giữa ông Quán và các nhà nho trẻ để thể hiện thái độ, quan điểm tư tưởng của mình về thời cuộc và nhân tình thế thái.
III - Liên kết
“Quán rằng: ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.”
Thái độ yêu ghét dứt khoát và mãnh liệt đó đã tạo nên tinh thần đấu tranh, sự phấn khởi mạnh mẽ trong truyện Lục Vân Tiên, thu hút người đọc…
… Thương và ghét đều vì nhân dân. Lợi ích của dân là thương, gây hại cho dân là ghét :
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm
…
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Nguyễn Đình Chiểu cũng đứng trên lập trường nhân nghĩa của nhân dân mà có một thái độ dứt khoát : yêu và ghét, “Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”… Thái độ thật dứt khoát ấy được xây dựng trên một lí tưởng vững chắc bền bỉ, không gì lay chuyển nổi. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga tiêu biểu cho cái lí tưởng ấy. Trong truyện Lục Vân Tiên mỗi nhân vật chính diện đều theo đuổi một lí tưởng như vậy.