I - Tổng quan
1. Tản Đà (1889 – 1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu. Sinh ra tại núi Tản bên bờ sông Đà, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (hiện là Ba Vì, Hà Tây), ông được biết đến với bút danh Tản Đà. Gia đình ông theo truyền thống nhà nho, có hứa hẹn về văn hóa và nghệ thuật. Cha ông là quan sát tỉnh Ninh Bình, Nguyễn Danh Kế, mẹ là đào nương Nhữ Thị Nghiêm. Do đó, Tản Đà không chỉ yêu thích ca trù mà còn hiểu biết sâu về nhạc dân gian. Ông giỏi hát xẩm, chèo, và cải lương, cũng như am hiểu về từ khúc (nhạc cung đình Trung Quốc). Tản Đà là biểu tượng của kiểu tài tử nhà nho vào thời kỳ giao thời, là người đầu tiên 'đưa văn chương ra phố phường'. Tác phẩm của ông phản ánh cá tính nghệ sĩ tài năng và tài tử.
2. Tản Đà viết cả văn và thơ, nhưng ông nổi tiếng với thơ hơn. Thơ của Tản Đà mang phong cách cổ điển về hình thức và độc đáo về nội dung, ông được gọi là một liên kết giữa văn học trung đại và hiện đại. Là một thi sĩ tài năng và tình yêu, ông viết nhiều về tình yêu. Ngoài ra, thơ của Tản Đà cũng thể hiện rõ sự dân tộc từ hình thức đến nội dung. Trong thơ của ông, lòng yêu nước và quê hương được thể hiện rất phong phú và đa dạng, đôi khi trực tiếp, đôi khi gián tiếp.
Công trình quan trọng: Về thơ bao gồm Khối tình con I, II, III, Còn chơi, Tập thơ của Tản Đà… Về văn xuôi bao gồm Giấc mộng lớn, Giấc mộng con I, II, Tập văn của Tản Đà…
Bầu trời được sắp xếp trong tập Còn chơi (1921) là một ví dụ tiêu biểu cho phong cách thơ của Tản Đà. Bài thơ được viết dưới hình thức tự sự, kể về một tình huống tưởng tượng khi nhà thơ lên gặp trời để ngâm thơ. Qua đó thể hiện ý thức cá nhân và quan điểm về văn chương, về cuộc sống.
3. Đọc hiểu sâu sắc, phân biệt giữa lời thoại và lời kể. Lưu ý sự thay đổi về vị trí giữa vần chân và vần lưng.
II - Kiến thức cơ bản
Tản Đà được coi là “người vượt qua hai thế kỷ”, là điểm nối giữa thơ cổ và thơ mới, là người đóng vai trò quan trọng trong việc khơi đầu cho thơ mới. Các đánh giá này đã xác nhận vai trò quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi. Ông là biểu tượng của văn học Việt Nam trong giai đoạn này, giai đoạn mà văn học dân tộc đang trải qua sự thay đổi và bắt đầu bước vào giai đoạn hiện đại. Bầu trời là một bài thơ mang đậm tính cá nhân của Tản Đà. Bài thơ diễn tả một câu chuyện logic với các chi tiết cụ thể, hấp dẫn và thuyết phục: nhà thơ nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, tiếp tục đến với Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời và chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về bản thân rồi đọc thơ và chia sẻ cảnh ngộ với Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi đưa về trần giới. Nhà thơ đã lựa chọn một cách độc đáo để diễn đạt tâm trạng của mình.
Việc tưởng tượng về việc trở thành hầu Trời đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của mình và thể hiện quan điểm sáng tạo mới về văn học, đồng thời phản ánh ý thức cá nhân đầy cá tính của ông. Nhà thơ đã bắt đầu câu chuyện của mình bằng một phong cách lôi cuốn, pha trộn giữa hư cấu và tự nhiên:
Đêm qua có lẽ đã là một trải nghiệm đáng nhớ,
…
Thực sự là thú vị khi được lên thăm đền Trời.
Lý do được mời lên thăm Trời cũng khá bình thường và dễ tin: Buổi tối buồn rầu, dậy đun nước uống, ngâm thơ và ngắm trăng. Và “Tiếng ngâm vang trên sông Ngân Hà” đã khiến Trời không thể ngủ được. Và rồi được mời lên thăm Trời.
Cuộc gặp gỡ với Trời và các tiên được tường thuật chi tiết, tự nhiên, nghe như đời thực. Tác giả đã sử dụng cách kể chuyện giản dị của dân gian để tái hiện câu chuyện trò chuyện với Trời.
Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để tự giới thiệu. Giới thiệu chi tiết về tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp và danh sách các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn một cách độc đáo: gặp Trời, ngâm thơ cho Trời và các tiên nghe, từ đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách tự nhiên:
Trước sự hài lòng của việc đọc, sự hứng thú vô cùng!
Thêm một chút nữa, việc đọc sẽ thêm phần thú vị!
Văn phong mềm mại, càng tốt khi nhấn mạnh vào khía cạnh tinh tế!
Tự đề cao tài năng của mình nhưng lại chọn cách để Trời và các tiên khen ngợi. Điều này thực sự là một dạng ngạo mạn dễ thương.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm, được phân loại rõ ràng theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn giải trí, văn tiểu thuyết, văn tự sự và văn dịch) thì đưa ra nhận xét, kèm theo nhận xét của Trời “Văn đã phong phú, có nhiều phong cách” (đa dạng về thể loại, phong cách). Nhà thơ còn lấy cảm nhận của Trời để khẳng định tài năng của mình:
Trời còn nhận xét: “Văn thật tuyệt vời
Văn truyền cảm, chắc chắn sẽ có nhiều người thích!…
Thấm như mưa, lạnh như tuyết!”
Nhà thơ đã tự tin khẳng định bản thân, liên kết với tên thật của mình. Điều này là thái độ tự tin của một người tài năng và biết đánh giá bản thân. Trong thời đại của Tản Đà, khi đất nước đang chịu sự xâm lược, tự giới thiệu cũng là biểu hiện của lòng tự hào và tôn trọng dân tộc. Hơn nữa, nhà thơ còn thể hiện phong cách tự tin của mình:
- “Tôi là Nguyễn Khắc Hiếu
Đi thăm Trời vì tính cách kiêu căng của mình.”
Qua cuộc hội thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ cũng khẳng định trách nhiệm lớn lao của mình và của người nghệ sĩ nói chung trong việc 'thiên lương' cho loài người:
Trời nói: “Không phải là Trời đày,
Trời đã đặt cho con một trách nhiệm này
Là trách nhiệm “thiên lương” của nhân loại,
Để con thực hiện trong cuộc sống này.”
Tạo ra tình huống tưởng tượng này để an ủi bản thân, đồng thời cũng để thể hiện ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.
Nhân đây, nhà thơ chia sẻ cảm xúc về nghề văn của mình. Tản Đà được biết đến là người đã mở ra cánh cửa cho thơ Mới, không chỉ bởi vì thơ của ông mang phong cách hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân tự tin trên trang giấy mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, xem nghề viết là phương tiện kiếm sống. Khi chia sẻ với Trời, nhà thơ đã mô tả chi tiết về cuộc sống làm văn nhưng cũng tự an ủi mình bằng lời của Trời.
Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới dạng một bài thơ – câu chuyện tưởng tượng vui vẻ và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định bản thân của một nghệ sĩ. Nhà thơ không chỉ tự tin về tài năng của mình mà còn thể hiện quan điểm về mục đích của văn chương, đó là phục vụ cho thiên lương. Viết văn để làm đẹp cuộc sống là trách nhiệm cao cả mà trời giao cho những người nghệ sĩ.
Sự sáng tạo độc đáo trong mặt nghệ thuật của Tản Đà đã mang ngôn ngữ hàng ngày, dễ hiểu, và giản dị vào thơ ca. Ngôn ngữ trong Hầu Trời đã phản ánh giọng điệu của văn xuôi và tiếng nói của dân gian. Không bị ràng buộc bởi quy tắc vần, mạch cảm xúc trong thơ phát triển một cách tự nhiên và bản thân cái Tôi được tự do thể hiện. Điểm đặc biệt và thành công của bài thơ cũng nằm ở việc tạo ra tình huống hầu Trời để khẳng định tài năng và quan điểm của mình. Đây là một phong cách ngạo nghễ của một nghệ sĩ, đầy vui vẻ và dễ thương. Bài thơ cũng vẽ nên bức tranh về thi sĩ Tản Đà với phong cách tự tin độc đáo, đó là sự tự tin của một nhà văn tài ba ở thời kỳ mà ý thức cá nhân được coi trọng và khẳng định.
III - Liên kết
Tản Đà đã thốt: Công việc viết văn thật là phiền phức! Thỉnh thoảng, thi sĩ còn gặp khó khăn với việc không có độc giả:
Gia đình tôi từ lâu đã nghèo khó
Bán văn để kiếm tiền phụ giúp cuộc sống hàng ngày.
Quanh năm bận rộn với những tác phẩm không được độc giả quan tâm.
Dù có thân thế khiêm tốn nhưng ông vẫn có niềm đam mê với nghệ thuật hát chèo.
Trong những khoảnh khắc ca hát, ông tìm thấy sự yên bình và thanh thản.
Ông biểu diễn trò chơi đời với thế gian qua nghệ thuật của mình.
Tối nay là đám cưới, ngày mai lại làm quan
Mỗi đêm cưới vợ, lại đóng vai quan !
Đóng vai quan như chèo thuyền, dễ dàng vô cùng
Tôi đã không còn nghèo từ lâu nay
Nhưng bước vào con đường công danh vẫn không dễ dàng
Nếu leo trèo không được, thì phải nằm ngẫm suy.
Nằm ngẫm suy để tôi nảy ra ý tưởng viết văn.
Tạo ra sản phẩm văn hóa để kiếm sống.
Kiếm tiền, ăn no, rồi lại nằm suy nghĩ tiếp.
Như con tằm vắt ruột lá dâu xanh.
Dâu xanh rút sợi tơ vàng giả
Thân thế con tằm đầy băn khoăn
Tớ cảm thấy mình giống con tằm
Tơ tằm như là văn chương của tớ.
Văn chương là nguồn thu nhập của tớ
Nghề làm ăn khó kiếm đủ sống
Văn chương tốn kém ai hiểu được
Giấy mực đâu có thể biết khổ nhọc !
Trong văn chương ai dám tự tin hơn
Làm ăn phải thế, đó là quy luật,
Chuyển từ quyển này sang quyển khác,
Ở trong văn có lợi, cũng có văn chơi.
Văn chơi in ra để cùng vui chơi
Dù chỉ được vài đồng thôi!
Bán chữ, gặp khó khi giấy đắt lên
Người mua có hay không cho là đâu?
Cho không ai biết thì đó là điều gì
“Bán nói” không dám nói ra đâu (điều)
Chi phí vì văn chưa tính đến
Những tiền giấy mực đã bao nhiêu.
Bao nhiêu cục gỗ mới thành văn
Được bán sách ra chết mấy lần!
Ông chủ nhà in in đã đắt!
Lại ông bán sách mấy mươi phâ!
Mười phân gửi bán, lấy tiền sau
Bán hết hàng thu tiền đợi cũng lâu.
Lúc túng tiền, đem bán rẻ thỉnh thoảng
Trừ đầu trừ cuối, nghĩ càng đau!
Càng đau mà vẫn phải cứ tiếp tục
Tiếp tục mãi, nên vẫn cứ nghèo.
Chỉ có văn khiến cho nghèo, nhưng văn cũng khổ lắm
Khổ văn làm cho tớ mất tiền tiêu!
Không có tiền tiêu, đầy rẫy lo toan
Vay nợ khó khăn đến từng ngả
Còn nợ nần với nhà in đống đông
Nghĩ ra văn cần sự gan ruột chăng?
Bán văn mà chẳng kiếm được đồng tiền!
Nghề văn chương thật là phiền phức!
Bán văn ế mãi chẳng có lời,
Có lẽ phải gánh lên vai tiên!