Nhờ sự phong phú và sâu sắc của văn hóa, trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam luôn đa dạng và phong phú. Hãy cùng Mytour khám phá những bí mật về trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam qua các thời đại nhé!
Từ thời kỳ khai hoang đất nước cho đến cuối triều Nguyễn, trang phục Việt luôn kế thừa và biến hóa theo dòng lịch sử. Dù là ở bất kỳ thời kỳ nào, trang phục của phụ nữ Việt vẫn mang những nét đặc trưng rất riêng. Hãy cùng nhau điểm qua một số loại trang phục qua từng thời kỳ.
Thời Hùng Vương (2000 TCN - 200 SCN)
Ngay từ thời kỳ mở nước, nghệ thuật dệt vải đã đạt đến mức cao, với ít nhất hai loại vải được dệt từ cây và sợi, cho phép người dân tạo ra nhiều bộ trang phục với màu sắc và kiểu dáng đa dạng.
Phụ nữ thời Hùng Vương thường mặc áo ngắn đến bụng, xẻ ngực, ôm sát cơ thể, có thể mặc yếm kín ngực với cổ tròn và trang trí bằng hình những tấm hạt gạo.
Ngoài ra còn có những loại áo cánh ngắn, cổ vuông, để hở một phần vai và ngực hoặc kín ngực, hở một phần vai và lưng. Cả hai loại này có thể là áo mặc chui đầu hoặc cài khuy bên trái. Trên áo thường có hoa văn trang trí. Thắt lưng thường được trang trí bằng ba hàng chấm được quấn ngang bụng một cách đều đặn.
Trong thời kỳ đó, phụ nữ còn thường mặc áo chui đầu vạt bên trái, buộc tóc, và đi chân trần.
Thời Lý (11 - 13 thế kỷ)
Trang phục truyền thống của phụ nữ Việt bao gồm khăn đội đầu (khăn vuông), khăn buộc tóc, yếm, thắt lưng, áo cánh, váy, áo tứ thân, và áo năm thân.
Chiếc yếm của phụ nữ được làm từ một miếng vải hình vuông với một góc được khoét ra tạo thành cổ, phần còn lại của vải tạo thành một chiếc yếm phía trước ngực, làm đồ lót mặc sát người. Yếm thường được làm từ lụa hoặc vải nõn sợi nhỏ hoặc vải quyến có đủ màu sắc trừ màu đen.
Thắt lưng có độ dài khoảng 1,5-2m và rộng khoảng 15-20cm. Thường được dệt từ lụa sồi, thắt lưng được quấn quanh người hai vòng và để lại một phần dài ra phía trước để thắt nút hoặc để dải thắt lưng rủ xuống phía trước..
Hai đầu của thắt lưng thường được chừa ra một đoạn sợi dọc (còn được gọi là sợi canh) không được dệt, để tết tua. Thắt lưng được nhuộm với màu sắc của cầu vồng. Phụ nữ thường thắt hai chiếc thắt lưng để tạo ra nhiều màu sắc đẹp mắt.
Từ thời Trần đến thời Tiền Lê (15 - 16 thế kỷ)
Vải của nước ta vào thời điểm đó bao gồm các loại như Cát Liễu, hoa tim táo, lụa bóng bông, ỷ, lĩnh, là, hài tơ khá lạ mà chất lượng tốt. Hai thứ gai, tơ chuối thường được dùng làm vải, mịn như lụa nõn, rất phù hợp để mặc vào mùa hè.
Trang phục dân tộc của phụ nữ được chia thành 2 giai đoạn. Từ thế kỷ 13-15, áo thường có phần ống tay rộng, áo choàng có cổ áo khoét sâu và rộng, bên trong mặc một chiếc yếm quây. Đến thế kỷ 15-16, cuối thời nhà Trần, đầu nhà Lê, phần cổ áo đã được may kín đáo hơn với phần cổ tròn, ống tay gọn gàng hơn. Mặc dù vậy, màu sắc vẫn được thiết kế phức tạp và lôi cuốn hơn.
Phụ nữ thường mặc áo đen, nhưng áo trắng bên trong thường được để lộ ra ngoài, ôm sát cổ, rộng bốn tấc, tạo ra sự khác biệt. Màu xanh, đỏ, vàng, tím hoàn toàn không được sử dụng.
Nhà Lê (15-16 thế kỷ)
Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa Trung Hoa, trang phục của phụ nữ Việt thời Lê có nhiều điểm giống với áo choàng Hanfu của Trung Quốc với phần ống tay rộng, thắt lưng to ngang eo được dùng để cố định bộ áo choàng này.
Thời Mạc (16 thế kỷ)
Trong thời đại này, phụ nữ thường mặc áo dài tứ thân cổ tròn, thắt lưng buông dài phía trước bụng, và váy dài rộng. Họ thường để tóc dài và phân đường tóc ở giữa. Những phụ nữ quý tộc có gu ăn mặc tinh tế hơn, thường sử dụng những dải xiêm đủ màu sắc treo xuống chân, tạo ra vẻ đẹp nhẹ nhàng và duyên dáng.
Trang sức cũng ngày càng đa dạng hơn về kiểu dáng và màu sắc, bao gồm vòng tay tròn phẳng, hoa tai hình quả bầu, hoa sen hoặc khuyên tròn đẹp mắt.
Thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18)
Trong thời kỳ Hậu Lê, có nhiều kiểu trang phục và các bộ váy áo đã thể hiện được nét văn hóa riêng. Trang phục của phụ nữ thời kỳ Hậu Lê thường rất kín đáo với nhiều lớp áo có màu sắc đa dạng. Đặc trưng nhất vẫn là phần ống tay rộng.
Trang phục của các hầu gái (hoặc quan hầu trong cung) thường có áo cổ tròn, có thể có vạt áo dài hoặc ngắn, váy đơn hoặc xếp lớp, tay áo rộng hoặc hẹp...
Thời Tây Sơn (thế kỷ 18)
Trang phục của phụ nữ thời Tây Sơn thường rất phức tạp với các chi tiết thêu, may tỉ mỉ. Đặc biệt, trong thời kỳ này liên quan nhiều đến cuộc chiến tranh lớn, trang phục của phụ nữ có xu hướng giống trang phục quân sự, thay vì váy thì họ thường mặc quần. Những năm đầu của thế kỷ 19, phụ nữ thậm chí bị cấm mặc váy vì được xem là không phù hợp.
Thời Nguyễn (thế kỷ 19)
Vào thế kỷ 19, mẫu áo dài năm thân trở nên phổ biến. Trang phục bao gồm hai phần vải được may nối lại thành thân trước theo phong cách kín đáo. Bốn phần áo bên ngoài tượng trưng cho bốn thân phụ mẫu: cha mẹ mình và cha mẹ của người khác, phần thứ năm đại diện cho người mặc. Áo luôn có năm cúc, thể hiện tư tưởng làm người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Trong xã hội, các trang phục truyền thống như áo dài, áo yếm, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, nón quai thao… đã trở thành biểu tượng của văn hóa dân tộc.
Trong khi chiếc yếm đã rời xa cung đình để cùng phụ nữ lao động trong ruộng, hoặc cùng áo tứ thân tham gia hội Lim, thì thời trang phương Tây với những chiếc váy xòe, những chiếc đầm hiện đại cũng đang dần thâm nhập và được phụ nữ quý tộc trẻ ưa chuộng, trong đó Hoàng hậu Nam Phương – người cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam, là người rất yêu thích trang phục phương Tây và mặc rất đẹp.
Trên đây là những thông tin về các loại trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ. Những bộ trang phục này đã tạo nên nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam.