
I - Tìm hiểu tổng quan
1. Tác giả
Nguyễn Công Trứ phụng sự triều Nguyễn, nhưng tính cách tự do, ham muốn tự do đã khiến cuộc đời quan trường của ông gặp nhiều trắc trở. Nguyễn Công Trứ là một nhà nho yêu nước và quan tâm đến cuộc sống của nhân dân. Ông đã để lại khoảng 50 bài thơ, hơn 60 bài ca trù và một bài phú nổi tiếng Hàn nho phong vị phú. Các tác phẩm của ông chủ yếu được viết bằng chữ Nôm.
2. Bài ca ngất ngưởng là một thể loại văn học hát nói, được sáng tác sau năm 1848, khi tác giả đã rời bỏ sự nghiệp quan lại và tận hưởng cuộc sống tự do và thong thả. Bài thơ thể hiện rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ trong giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm khó khăn của cuộc sống quan trường. Bài thơ phản ánh sâu sắc tài năng và đạo đức sống của một nhà nho có uy tín, có phẩm hạnh.
3. Khi đọc, cần chú ý nhấn giọng từ ngất ngưởng ở các vị trí khác nhau, và lưu ý đến cách ngắt nhịp, âm điệu của các câu thơ, xen kẽ giữa nhịp dồn và câu dài : 3/3/4 (câu 3), 3/3 (câu 5)…, cũng như 5 câu thơ cuối (2/2/2, 2/2/3…).
II - Kiến thức căn bản
1. Bài ca ngất ngưởng là một ví dụ điển hình của thể loại văn học hát nói – một dạng thơ được phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỷ XIX bởi các tác giả người Việt trong môi trường văn hoá song ngữ Hán Nôm thời trung đại. Đây là một thể loại thơ 'kể chuyện' kết hợp giữa hát và nói. Nhiều nhà nho, nhà thơ, nhà chính trị nổi tiếng thời đó đều lựa chọn hình thức này để thể hiện cảm xúc và tâm trạng cá nhân. Thể loại này đã nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí độc tôn và trở thành một xu hướng văn học của thời kỳ.
Có thể nói rằng, so với các bài thơ 'Đường luật gò bó', thể loại hát nói mang tính tự do và mở cửa hơn nhiều. Mặc dù có quy định về số câu, cách chia khổ nhưng tác giả hoàn toàn có thể bỏ qua và sáng tạo, tạo ra một tác phẩm tự do về số câu, số từ, cách gieo vần, nhịp điệu,… Sự tự do của thể loại thơ này đặc biệt phù hợp với việc truyền đạt những quan niệm mới mẻ về cuộc sống của tầng lớp nhà nho tài tử, những người mong muốn thể hiện bản thân, sống tự do và coi thường những ràng buộc của xã hội, của cuộc sống mà Nguyễn Công Trứ là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất.
Bài thơ thuộc thể loại hát nói dôi khổ gồm 19 câu, tuân theo cấu trúc vần của một bài hát nói điển hình. Câu đầu tiên gieo vần chân, thanh trắc, câu 2, 3 gieo vần lưng, thanh bằng, và các cặp câu tiếp theo tuân theo quy luật này. Trong bài thơ, có sử dụng xen kẽ câu thơ bằng chữ Hán và không cố định về số từ trong mỗi câu, tạo nên giọng điệu đặc trưng của thể loại hát nói, thể hiện được tâm trạng và cảm xúc của nhân vật trữ tình.
2. Trong bài thơ, tác giả sử dụng các từ, cụm từ mang tính chất tự xưng như : Ông Hi Văn, tay ngất ngưởng, ông ngất ngưởng, phường Hàn, Phú. Những cách tự xưng này làm nổi bật tính cách ngất ngưởng, thái độ tự tôn và ngạo mạn của Nguyễn Công Trứ.
3. Ngất ngưởng là một từ mượn tượng trưng thường được sử dụng để chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, không ổn định. Trong bài thơ này, từ ngất ngưởng được sử dụng để ám chỉ sự khác biệt, vượt lên trên những định kiến thông thường, coi thường ý kiến của người khác. Ngoài ra, từ ngất ngưởng cũng được lặp lại nhiều lần ở cuối các khổ thơ, trở thành một biểu tượng cho một phong cách sống và thái độ sống độc lập, một cách thách thức xã hội dựa trên nhận thức sâu sắc về tài năng và nhân cách cá nhân.
4. Sau khi rời bỏ cuộc sống bó buộc trong chốn quan trường, Nguyễn Công Trứ thể hiện những hành động kỳ quặc, độc đáo đến mức ngất ngưởng. Thay vì cưỡi ngựa như người thường, ông lại cưỡi bò, và thậm chí còn đeo đuôi bò khi đi dạo, khiến cho cả chủ và người hầu đều kinh ngạc. Ngay cả khi đi thăm chùa, ông vẫn mang theo kiếm và một đôi dì. Tất cả những hành động này cho thấy tính cách độc lập, không chịu sự ràng buộc của Nguyễn Công Trứ, thể hiện mong muốn sống tự do, thoải mái, và tận hưởng cuộc sống mà không quan tâm đến sự nhận xét của người khác.
Nhà thơ đã sử dụng kỹ thuật tương phản, đặt những phần tương phản nhau để thể hiện thái độ ngất ngưởng của mình.
5. Trong tác phẩm, nhân vật trữ tình là một cá nhân kiêu kỳ, tự tin, say mê cuộc sống tự do, không quan trọng với danh vọng. Dù có tính cách ngạo mạn, tự cao, nhưng ông vẫn nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong cuộc sống. Ngay cả khi thả mình trong những khoảnh khắc tự do, ông vẫn nhắc nhở bản thân: “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Tư tưởng này không xung đột với tính cách kiêu ngạo, ngạo mạn của ông. Nguyễn Công Trứ thực sự là một nhà nho có trách nhiệm với quốc gia. Mặc dù cuộc sống quan trường gian nan, nhưng ông vẫn luôn trung thành với triều đình. Dù ham mê cuộc sống tự do, ông vẫn làm tròn trách nhiệm của một quan thần.
6. Tính sáng tạo của Nguyễn Công Trứ được thể hiện qua việc sử dụng nhiều ngôn ngữ dân gian trong bài thơ. Điều này tạo ra sự sống động, gần gũi và hóm hỉnh cho thể loại hát nói. Các từ ngữ dân gian như: ông, tay, vào lồng, một đôi dì, nực cười, phường, kìa núi nọ phau phau mây trắng, nên dạng, chẳng… cũng… có phần khắc hoạ rõ nét tâm hồn tự do, phóng khoáng và thái độ tự tin của tác giả.
III - Mối liên hệ
1. Trong một bài thơ khác, Nguyễn Công Trứ viết về “Chí nam nhi”:
Thông minh nhất nam tử.
Tình hồng thiên hạ vĩ kỳ.
Đã sinh ra thì phải có lý do gì,
Có lẽ không ai phải lãng phí đi.
Hỏi mà không có gì tạo ra,
Nợ đời quyết trả hết.
Khi chiến đấu bằng bút, hãy chăm chỉ như khi chiến đấu bằng kiếm,
Làm cho bản thân trở nên rõ ràng, uy nghiêm.
Trong thế giới này, mọi việc đã được xác định sẵn,
Cần phải có danh tiếng gì với những ngọn núi, con sông.
Không đi thì sao, chẳng lẽ phải trở lại không !
2. Khi “Thăm nhà thờ Nguyễn Công Trứ”, nhà thơ Hồng Nhu chia sẻ:
Ngạc nhiên khi bắt gặp ánh mắt,
Trẻ trung như lá, phản chiếu như mây.
Nguyễn công ơi Nguyễn công đây,
Mỉm cười nhìn ngắm quãng thời gian trôi qua.
Gió mưa trên bề dày của thế giới,
Thăng trầm trong cuộc sống như lên voi, xuống chó.
Người lãnh đạo thì thật sự rất oai nghiêm,
Người lính cũng là dòng dõi của trời cao.
Khi vui vẻ, họ trở thành con người,
Khi buồn, hãy đứng giữa bầu trời và trở thành thông điệp!…
Một vùng Uy Viễn nổi tiếng với tướng công,
Bàn thờ bao phủ bởi bóng dày của khói hương.
Chiếc lá thuỳ dương ngừng lại bên lề đường,
Nhìn thấy bức tường vùng vằng cháy đỏ, lòng người run lên.
Điệu nhảy nhót như gái làng,
Ngực như dòng sông xoắn đưa như dòng đò.
Ước ao quay về thời xưa,
Nguyễn công hạ áo, một bước vút lên trời.
Tôi nguyện được theo sau ngay lập tức,
Hát về “bốn mươi năm trước…” rồi cười…