I - Tìm hiểu tổng quan
1. Tác giả
- Với sự thành công trong thi cử, Nguyễn Khuyến được biết đến như là Tam nguyên Yên Đổ. Sau khi đạt được thành công, ông phục vụ cho triều đình nhà Nguyễn. Tuy nhiên, chứng kiến sự suy thoái của đất nước, sự suy đồi của đạo đức xã hội và thất vọng với thực tế của chính trị, ông rời bỏ chính trị và sống tĩnh lặng ở quê nhà. Trong thời gian này, ông tiếp tục viết thơ để thể hiện tình cảm và tâm trạng của mình, cũng như lòng yêu nước. Nguyễn Khuyến sống trong một thời đại rối ren của xã hội Việt Nam. Trong số các triết gia, ông chọn một con đường của sự liêm chính: không hợp tác với bạo quyền, sống một cuộc sống đơn giản nhưng thanh cao trong làng quê.
2. Tác phẩm
- Thu điếu là một trong những bài thơ nổi tiếng trong tuyển tập thơ thu của Nguyễn Khuyến. Tuyển tập thơ này thể hiện đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ của ông, cả về kỹ thuật và ý tưởng. Thơ của Nguyễn Khuyến không chỉ ghi lại cảm xúc của ông trong những năm tháng sống yên bình ở quê hương mà còn miêu tả cuộc sống và phong cảnh nơi quê nhà. Tác phẩm thơ của ông thể hiện sự yêu quê hương sâu sắc và lòng nhân ái với dân tộc, đất nước. Nguyễn Khuyến được biết đến với những bài thơ viết về quê hương, vẻ đẹp của cảnh quê Việt Nam, đặc biệt là về mùa thu. Thơ thu của ông thể hiện một tâm hồn giàu cảm xúc, tinh tế và sử dụng ngôn từ tài hoa, phong phú.
3. Thu điếu là một bài thơ trữ tình phong cảnh, trong đó nhân vật trữ tình được tạo hình rõ nét như một biểu tượng nghệ thuật chính của bài thơ. Đó là một người có tâm hồn cao quý, yêu cuộc sống trong sạch của làng quê, mặc dù sống một cuộc sống đơn giản của một nhà thơ ẩn dật nhưng luôn ẩn chứa những suy tư sâu sắc. Tác giả sử dụng việc câu cá như một cách để thể hiện tâm trạng của nhân vật.
4. Hãy đọc bài thơ một cách chậm rãi, cảm nhận, và giữ cho nhịp điệu của bài thơ là 4/3.
II - Kiến thức căn bản
Trong thời kỳ rối ren của lịch sử dân tộc, Nguyễn Khuyến ra đời. Năm 1858, quân Pháp xâm lược, mở đầu cho tám mươi năm thời kỳ bị áp bức. Xã hội Việt Nam trải qua những biến động đáng kể, nhưng chủ yếu là theo hướng tiêu cực. Hệ thống phong kiến, mặc dù bảo thủ, dần dần bị phá hủy, thay thế bởi lối sống và hành vi vô trật tự. Dân tộc mất đi tự do, quan lại cúi đầu, bán đứng để tìm lợi ích. Đối với các nhà nho, đó là thời kỳ đầy bi kịch. Bất lực và bi quan, họ tìm đến thơ để thể hiện bản thân. Nguyễn Khuyến là một trong những nhà nho mang theo lòng mong muốn sống trong sạch và bi quan trước tình hình bi đát của dân tộc. Bài thơ thu của ông tập trung vào việc thể hiện cảnh đẹp của quê hương và nỗi buồn sâu sắc trước thảm kịch của dân tộc.
Có thể chia bài thơ thành hai phần.
- Phần 1: Sáu dòng thơ đầu, mô tả cảnh thu trong làng quê yên bình.
- Phần 2: Hai dòng kết thúc, miêu tả một người câu cá với tâm trạng sâu xa. Tuy nhiên, cảnh đẹp ở sáu dòng thơ đầu cũng là biểu tượng của tâm trạng của nhân vật trữ tình - tác giả.
Bức tranh phong cảnh được vẽ một cách tinh tế, với nhiều chi tiết và nét vẽ rất sống động. Không gian của bức tranh được thu gọn trong một cái ao nhỏ. Những cái ao nhỏ xinh xắn nằm trong những con ngõ uốn lượn và vắng vẻ tạo thành một hình ảnh quen thuộc và đặc trưng của vùng quê Bắc Bộ. Nhân vật trữ tình - người vẽ bức tranh - đang ngồi trên chiếc thuyền câu cá. Do đó, nét vẽ đầu tiên là:
Mặt ao thu trong lành, nước mát mẻ,
Sóng nhẹ nhàng theo làn gió len lỏi,
Những chiếc lá vàng lảo đảo khẽ khàng.
Không gian yên bình, trong lành và êm đềm. Tất cả đều nhỏ bé, giản dị, tạo nên một cảnh tượng yên bình nhưng cũng đầy cô đơn, vắng vẻ. Mọi thứ hài hòa với nhau, tạo nên một bức tranh phong cảnh tuyệt vời. Nét vẽ mềm mại, sống động như một bức tranh nước. Tác giả mô tả tỉ mỉ, chọn lựa hình ảnh và chi tiết cực kỳ tinh tế. Đó là một bức tranh tươi đẹp với màu sắc hòa quyện, đường nét cân đối. Phần nền là màu xanh mát của ao, với những làn sóng nhẹ nhàng. Điểm nhấn trên mặt nước ao là chiếc thuyền câu mảnh mai, với hình ảnh người ngồi câu cá trong tư thế suy tư. Cao hơn một chút so với bề mặt ao, nổi bật trên màu xanh dịu dàng của nước ao thu đó là một chiếc lá vàng nghiêng nghiêng. Trên cao hơn chút nữa là bầu trời rộng lớn với màu xanh ngắt. Câu thơ thứ năm mở ra chiều sâu không gian cho bức tranh nước. Không gian rộng lớn, sâu thẳm so với mặt ao hẹp, sóng nhẹ và gió thoáng đã tạo ra một cảm giác hiu quạnh. Cảnh quê yên bình nhưng u buồn hiện ra qua ánh mắt của thi nhân, đầy nỗi buồn thương. Nó cô đơn và u buồn đến sâu sắc. Cảnh tĩnh lặng và vắng vẻ như vậy, nếu có một người xuất hiện, có lẽ sẽ làm giảm đi sự cô đơn, nhưng người duy nhất trong cảnh - người câu cá kia thì sao:
Ôm gối suy tư, cần câu chẳng lắc lư.
Chân bèo sóng lặng, cá chẳng ngó đâu.
Người ngồi câu có vẻ không quá quan tâm đến việc câu được cá hay không. Hình như việc câu cá là để suy ngẫm về điều gì đó. Chỉ khi “Chân bèo sóng lặng, cá chẳng ngó đâu” thì mới chợt tỉnh giấc. Nhân vật trữ tình trong bài thơ dường như mang trong mình nhiều suy tư. Nhưng điều rõ ràng nhất là tình yêu sâu sắc đối với quê hương. Chỉ khi yêu sâu đậm quê hương làng cảnh quê mình, người mới có thể vẽ nên một bức tranh quê đẹp, thanh bình và trong lành như vậy. Trước cảnh đẹp như vậy, mà con người vẫn đầy suy tư, điều này chứng tỏ trong lòng người còn rất nhiều bí ẩn. Từ thân thế, cuộc sống, hoàn cảnh của tác giả có thể hiểu, tâm trạng của người câu cá chính là nỗi lòng non nước, nỗi lòng của thời đại của nhà nho có lòng tự trọng và tình yêu quê hương đất nước như Nguyễn Khuyến.
Với Chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến đã góp phần làm phong phú đề tài về mùa thu trong văn học Việt Nam với những bức tranh thu đẹp và đặc trưng của quê hương Việt Nam. Sự tài năng trong việc sử dụng ngôn từ, tinh thần nhạy cảm và lòng đam mê với dân tộc là những yếu tố quan trọng tạo nên giá trị của Chùm thơ thu.
III - Mối liên hệ
Đọc lại bài Mùa thu câu cá (Thu điếu) và so sánh, liên hệ với hai bài khác trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến:
- Mùa thu rượu (Thu ẩm)
Năm nhà gian cỏ mọc le te,
Đường vắng đêm sâu ánh đèn loè.
Chiếc nón lay nhẹ, khói u uế,
Ánh trăng sáng lung linh trên mặt ao.
Trời cao ai tô vẽ màu xanh lơ?
Mắt già không biết chớm đỏ khoe.
Rượu vang thơm lừng, mùi hương bay xa,
Ba chén đã say say mà chưa đến năm.
- Mùa thu sáng tác (Thu vịnh)
Bầu trời xanh ngắt với mây trắng,
Cỏ cây rung nhẹ dưới làn gió.
Đồng cỏ biếc như một mảng sương mờ,
Cành cây mỏng manh, lơ phơ dưới ánh trăng.
Trước nhà, một vài dãy hoa cách đây mấy mùa,
Từ trên bầu trời, tiếng của con ngỗng nước rộn ràng.
Lúc bắt đầu viết, lòng như đầy hứng khởi,
Nhưng sau cùng, lại cảm thấy e ngại trước ông Đào.