I - TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Tú Xương sinh vào thời kỳ giao thời, khi xã hội đang trải qua nhiều biến động. Xã hội phong kiến đang bước vào giai đoạn thực dân phong kiến. Quê hương của ông thể hiện rõ sự biến đổi đó. Mỗi ngày, những điều không lường trước lại đập vào mắt ông, khiến ông phản ứng trong tâm trạng và thể hiện thành hai đặc điểm quan trọng trong thơ của ông: tình yêu và phê phán.
- Thơ của Tú Xương, dù là tâm trạng hay lời phê phán, đều phản ánh một cái nhìn sắc sảo từ một nhà văn có Tâm và có Tài. Trong tác phẩm của ông, luôn có một nhân vật trữ tình với cả dáng vẻ và tâm hồn. Thơ của ông thể hiện sự phản kháng đối với thời đại. Ông luôn chỉ trích sâu sắc những điều tiêu cực trong xã hội. Vì thế, giọng điệu thơ thường đắng cay và sắc bén.
2. Tác phẩm
- Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu cho thể loại thơ trữ tình của Tú Xương. Bài thơ thể hiện tình cảm của nhà thơ dành cho vợ mình, đồng thời phản ánh nhân cách của Tú Xương. Đây cũng là lời tâm sự đắng cay của người chồng – nạn nhân của một xã hội lố lăng, biến đổi khiến con người trở thành vô nghĩa với bản thân và gia đình.
- Bài thơ được chia thành bốn phần theo cấu trúc đề, thực, luận, kết. Bài thơ ca ngợi sự hy sinh của phụ nữ và sự thông cảm hiểu biết của chồng. Ngôn ngữ dân dã, đời thường nhưng với tài năng và lòng nhân ái, Tú Xương đã tạo ra một tác phẩm thơ sâu sắc, mang trong đó những giá trị nhân văn vững chắc.
3. Cách đọc
- Đọc chậm, chú ý nhấn giọng ở những lúc sông trôi, năm con, một chồng, lặn lội thân cò, eo sèo mặt nước, năm nắng mười mưa. Hai câu cuối đọc với giọng cao hơn.
II - Kiến thức cơ bản
Tú Xương là một trong số ít nhà thơ trung đại viết về vợ. Các nhà nho, đệ tử của Khổng sư. Họ thường coi vợ là người 'nâng đỡ, hỗ trợ' nên việc vợ vất vả là điều bình thường. Do đó, họ không thường viết về vợ như những nhà thơ hiện đại. Riêng Tú Xương, ông viết nhiều về vợ, trong đó có bài Thương vợ. Bài thơ này thể hiện cả tài năng và nhân cách của ông.
Sinh ra trong thời đại 'Tây Tàu lố lăng', xã hội suy đồi về đạo đức, Tú Xương luôn mang trong mình nỗi đau của một người có nhân cách nhưng không thể làm gì. Tất cả những điều đó ông đều thể hiện trong thơ. Mỗi bài thơ trào phúng của ông là một lời chửi phê chua cay và độc đáo dành cho những người sẵn lòng bán rẻ lương tâm, làm đổ vỡ lòng tự trọng và danh dự của dân tộc, vi phạm đạo lý chỉ vì muốn sống sung sướng. Đó chính là mảng thơ trào phúng của ông.
Ngoài ra, những bài thơ trữ tình sâu lắng của Tú Xương cũng thể hiện những nỗi niềm ẩn sau vẻ bề ngoài đắng cay, khắc nghiệt của cuộc sống. Những tâm sự đau lòng của một con người, đau vì chính mình đã được ông thể hiện trong Thương vợ. Bài thơ này đã cách điệu hình thức thơ Đường bằng ngôn từ đời thường đơn giản, gần gũi với dân gian và tâm trạng chân thành của một người chồng khi viết về người vợ của mình. Tú Xương có một người vợ hiền lành. Suốt đời, bà Tú đã hy sinh cho chồng con, điều này được thể hiện qua những bài thơ ông viết về vợ. Là một nhà nho sống trong thời đại mà người ta chỉ cần 'vứt bỏ bút lông để lấy bút chì', và sống cuộc sống 'sung sướng từ sáng đến tối', với tấm lòng trong sạch của một con người, ông Tú không thể giúp gì được cho vợ. Gánh nặng gia đình đè nặng lên vai bà Tú, nhưng với tấm lòng nhân hậu và sự hy sinh của một người phụ nữ phương Đông, bà Tú luôn nỗ lực để đảm bảo cuộc sống cho chồng con, để ông Tú vẫn được tự do thực hiện vai trò 'người ghi chép thời đại'. Chính vì điều này mà ông Tú luôn kính trọng vợ.
Bài thơ mô tả hai nhân vật: người vợ và người chồng. Hình ảnh người vợ được hiện ra thông qua cảm nhận của nhân vật trung thành – người chồng:
Suốt năm dài thương thảo bên bờ sông,
Nuôi năm nhỏ dạy lớn với một người chồng.
Vượt qua khó khăn khi vắng bóng ấy,
Lặn lội chăn sóc dù sóng vỗ dồn.
Bốn dòng thơ tóm tắt những vất vả hàng ngày của người vợ, đấu tranh để kiếm sống và chăm sóc chồng, con. Sự vất vả của người vợ rõ ràng từ câu thơ đầu tiên. “Quanh năm” không có giây phút nghỉ ngơi, “mom sông” biểu hiện sự gian nan, khó khăn. Gánh nặng gia đình là nguyên nhân của sự vất vả này. So sánh đầy ý nghĩa giữa chiếc đòn gánh trên vai người vợ với một bên là năm con, một bên là một chồng. Người chồng là một phần của gánh nặng này. Đó là lời tự trách đắng cay. Vì gia đình, vì nhu cầu của người chồng, người vợ phải vất vả hơn. Hai dòng thơ sau càng nói lên sự vất vả. Từ ngữ như lặn lội – quãng vắng, eo sèo – đò đông rất hình ảnh. Hình ảnh người vợ vất vả rõ ràng hơn, cảm xúc mạnh mẽ hơn trong lòng người chồng. Người chồng thấu hiểu và cảm thông với nỗi đau của vợ. Sự thấu hiểu này là minh chứng cho lòng nhân ái của người chồng. Ông không bế tắc với gia đình và vợ con, mà là bởi ông biết trân trọng điều đó. Giữa những biến động của cuộc sống:
Nhà kia con khinh bố phải hối hận,
Mụ kia chửi chồng vợ chê đâu cần
Nhưng người vợ vẫn kiên nhẫn, cố gắng, luôn bên cạnh chồng con. Điều đó khiến người chồng rất cảm phục. Ông thể hiện sự cảm thông của mình:
Một duyên hai nợ, số phận đã định sẵn,
Nắng mưa năm tháng chẳng dễ dàng.
Hai thành ngữ trong hai câu thơ đều miêu tả sự cực nhọc của người phụ nữ phải chăm sóc chồng con. Và một lần nữa, người chồng tỏ ra biết trân trọng vợ mình. “Âu đành phận”, “dám quản công” không phải là ý kiến của người vợ mà là suy nghĩ của nhân vật trung thành – người chồng. Hình ảnh người vợ làm việc miệt mài nuôi chồng con với lòng hi sinh cao cả nổi bật trong bài thơ. Chỉ đến hai câu thơ cuối, người chồng lên tiếng với bản thân mình. Câu thơ dường như là sự thay đổi đột ngột trong cảm xúc:
Cha mẹ giàu sang, con vợi vợ.
Chồng hờ hững, đâu khác gì không.
Đây là một câu chửi. Ai bị chửi? Dựa vào bản chất của bài thơ, đây là lời của nhân vật trung thành. Từ sự đồng cảm đến thương vợ, rồi từ sự tức giận, tức bức. Tức giận với chính bản thân mình, tức giận với cuộc sống. Tức giận vì mình vô tích sự, không thể giúp vợ mình trong cuộc sống khó khăn; tức giận với cuộc sống đã biến những ông chồng trở nên vô ích. Trong nhiều bài thơ, Tú Xương đã thể hiện ý tưởng này. Không thể làm nô lệ, biến mình thành công cụ cho thực dân, người chồng không thể chia sẻ gánh nặng của vợ. Người đàn ông, người chồng, một con người có nhân cách, trước sự đau khổ của người vợ đã tỏ ra phẫn nộ. Như tự mắng mình, như mắng cuộc sống. Mắng những ông chồng vô tích sự, nhưng lại thích hưởng thụ, mắng cuộc sống đen tối để những người phụ nữ đã vất vả, tổn thương càng trở nên vất vả, tổn thương hơn. Mắng “thói đời ăn ở bạc” đã làm cho những ông chồng không trở nên hư hỏng, thì cũng trở nên vô ích.
Là một nhà nho sinh ra vào thời kỳ Hán học suy tàn nên ông Tú không thể đem lại sự giúp đỡ cho vợ con. Tâm trạng Thương vợ lặp lại nhiều lần trong thơ của Tú Xương. Hiểu biết và trân trọng những đau thương của vợ, tình cảm dành cho người vợ hiền làm cho Tú Xương góp phần tạo nên một hình ảnh đẹp về người phụ nữ phương Đông trong văn học Việt Nam. Sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với cuộc sống hàng ngày, kết hợp với yếu tố dân gian, qua tài năng và lòng tốt, Tú Xương đã sáng tạo ra một bài thơ ý nghĩa về nhân văn.
III - Kết nối
1. Khi nhìn lại cuộc đời của Tú Xương, nhà thơ và nhà giáo Trần Trung đã viết bài thơ Vẫn một Tú Xương:
Khi Tú Xương “Lạc mất ô”
Buồn buồn bơ bơ ờ ờ ca từ
Khi Tú Xương “Thương vợ”
Bước vào hành trình tâm linh
Đi lòng vòng, thấp thoáng hiện hình cò…
Mặc dù đã quen với cuộc sống ồn ào của thành phố
Nhưng lòng vẫn bị nhấn chìm bởi tiếng giày chạm đất mỗi bước chân
Mờ mịt bụi phủ đầy Thành Nam
Phố Hàng Song rộn ràng
Đôi chân người vội vã đi lại
Những vết bẩn trên mặt thành, đường
Và rồi đêm buông xuống
Âm thầm ngập tràn nỗi buồn tê tái
Tiếng gọi lạ – làm lòng đau nhói
Bật dậy
Dòng sông êm đềm
Thuyền ơi…
Trong thời đại hỗn loạn
Người tụ tập tại quán rượu cao lâu
Giữa niềm vui và nỗi buồn – vẫn là Tú Xương
Tú Xương rời đi
Lạc lối ở phố Hàng Nâu
Lang thang một mình
Bước đi lên xuống
Nỗi buồn vô vàn
Không gian vô biên
Quan hệ nợ nần với các nhà thơ
Nam Định, tháng 11 năm 1990
2. Tác giả Trần Trung Phụng gửi lời cảm kích đến nhân vật trữ tình trong bài Thương vợ với bức thư "Gửi bà Tú Xương"
“Quanh năm vất vả ở bên bờ sông”,
Thương vợ gánh nặng cuộc đời lấy chồng làm đề tài thơ.
Ông Tú, nhà thơ, chìm đắm trong tâm trạng lạc quan,
Chiếc áo bông giữa mùa hạ, đã mất chiếc ô từ sáng sớm.
Tình yêu nặng như muối mặn, cay như gừng,
Bà cười mỉm như làm mát: Chịu ông là giỏi giang.
Ánh đèn xanh soi sáng quyển sách vàng,
Có răng đen còn trắng suốt trăm năm.
Tôi là một con cháu của đất Vị Xuyên,
Yêu mến, bà đã gửi một lá thư cho tôi.
Tôi có nét giống với bà, đặc biệt là dáng đi vẹo hông,
Nhưng khác bà ở chỗ tôi không ghét chồng mà lại làm thơ.
Tôi không biết phải yêu thương bà như thế nào cho đúng,
Ước ao được học hỏi những điều của người xưa từ tế bà.
Có khi tôi đã bất ngờ cho Tú Xương, khi tôi giả định thơ của Tú Xương không có sự trữ tình, không có hơi thở lãng mạn, mà thay vào đó chỉ là những lời “Cống hỉ – mét xì – Thôi thôi lạy mợ xanh căng lạy…”. Thực sự, tôi cảm thấy phản cảm với điều đó. Ở nơi khác, ở bất kỳ ai, tôi không biết, nhưng đối với tôi, khi mà Tú Xương chỉ thể hiện hiện thực mà không có sự trữ tình, không có phần lãng mạn, thì Tú Xương đã mất đi sức sống trong tôi từ lâu và đã rời xa tôi mà không biết từ bao giờ.
Vậy nên, bất kỳ ai muốn nói về Tú Xương thì cứ nói đi, tôi vẫn tôn trọng […] nhưng tôi vẫn nghĩ rằng thơ của Tú Xương đi qua cả hai con đường của hiện thực và trữ tình, nhưng phần lớn ảnh hưởng từ hiện thực là ở chân trái. Tú Xương sử dụng trái tim trữ tình để biến chân trái thành hiện thực. Điểm chính trong hành trình thơ là ở chân phải và Tú Xương đã chuyển đổi sức mạnh của thơ đến với chúng ta bằng cách kết hợp nước đi của trữ tình và lãng mạn.