I - Tìm hiểu chung
1. Tác giả
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn viết nhiều thể loại, nhưng được biết đến nhiều nhất với hai tiểu thuyết và phóng sự. Các tác phẩm của ông tập trung phơi bày những bất cập trong xã hội Việt Nam thời kỳ đầu của thế kỷ 20. Ông sử dụng ngôn từ sắc bén, châm biếm để lên án những yếu tố tiêu cực của xã hội. Sự ảnh hưởng của phong cách viết của ông là rất lớn trong văn học Việt Nam. Ông mắc phải căn bệnh lao và qua đời khi mới 27 tuổi vì làm việc quá sức.
2. Số đỏ là một ví dụ điển hình cho phong cách nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Tác phẩm này là một vở kịch hài lớn với nhiều tình tiết phản ánh chi tiết về cuộc sống. Mỗi chương là một lời châm biếm sâu sắc từ tác giả nhằm vào xã hội hiện tại. Với nghệ thuật trào phúng tài ba, tác giả đã chỉ trích mạnh mẽ xã hội thượng lưu đang bám rừng cuộc sống văn minh, đầy những thái độ hèn nhát và nhục nhã. Những tư tưởng ngu ngốc đã phá hủy những giá trị văn hoá truyền thống và gây tổn thương cho xã hội như những kẻ hề nhảy múa đua nhau.
3. Hạnh phúc của một tang gia là một phần của chương XV trong tác phẩm. Qua miêu tả một buổi tang lễ, nhà văn đã phơi bày thái độ giả dối của một gia đình giàu có nhưng không biết hiếu thảo, từ đó phản ánh sự suy thoái của đạo đức xã hội.
4. Đọc chậm, nhấn giọng để làm nổi bật giá trị của trào phúng.
II - Kiến thức cơ bản
Trong 27 năm đời, Vũ Trọng Phụng đã viết suốt 10 năm. Ông được biết đến với danh hiệu “ông hoàng phóng sự Bắc kỳ”. Dù ra đi sớm, khi tuổi trẻ và sức trẻ đang tột bậc, nhưng nhà văn vẫn để lại những tác phẩm có ảnh hưởng lớn đối với văn học dân tộc. Tác phẩm của ông chân thực và tóm tắt một cách sống động cuộc sống thành thị Việt Nam thời kỳ đầu của thế kỷ 20. Vũ Trọng Phụng đã khai thác chất liệu hiện thực từ cuộc sống hàng ngày để viết. Mặc dù nổi tiếng với phóng sự, nhưng tác phẩm đánh dấu nhất của ông thuộc thể loại tiểu thuyết và đó là Số đỏ
Chương XV có tên gốc là Hạnh phúc của một tang gia – Văn Minh nữa cũng nói vào - Một đám ma gương mẫu. Ngay từ tên chương đã thể hiện tính chất trào phúng. Tình huống gây trào phúng thường là những tình huống có mâu thuẫn và bất thường, càng bất thường thì càng trào phúng. Những tính cách lỗi lạc như Grăng-đê (ơ-giê-ni Grăng-đê, Ban-dắc), ích kỷ như Đờ-la-chu-sơ (Trường học làm vợ, Mô-li-e), bất hiếu như đứa con (Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Nguyễn Công Hoan)… là những mâu thuẫn tạo nên tính chất trào phúng. Theo cùng nguyên tắc đó, nhưng tài năng hơn, Vũ Trọng Phụng tạo mâu thuẫn trào phúng độc đáo và hiện diện ngay từ tên gọi. Hạnh phúc của một tang gia là một mâu thuẫn rõ ràng và không cần giải thích. Hạnh phúc là khi ai đó được thỏa mãn một nhu cầu nào đó, khi thực hiện được ước mong của bản thân. Tang gia luôn đau đớn. Một người thân mất là nỗi đau “sinh tử biệt” của cả gia đình. Nhưng, ngược lại, cái chết của cụ cố tổ lại mang lại hạnh phúc cho cả một gia đình, và lại là một gia đình tôn quý, đại diện cho một nền văn minh. Kết hợp trạng thái tinh thần với một hiện tượng hoàn toàn xa lạ, nhà văn đã tạo ra một tình huống hài hước nhưng đầy cay đắng, trào phúng.
Cái chết của cụ cố tổ là một tình huống cay đắng và đầy ý nghĩa khi được sử dụng để chỉ ra sự bất hiếu của đám con cháu. Đánh đổi một người hạnh phúc đã là đủ, nhưng ở đây cả một gia đình tang thương lại hạnh phúc. Cái chết này đã được đám con cháu chờ đợi từ lâu vì rất nhiều lý do. Lo lắng, không thể chờ đợi lâu hơn, họ đã thuê người can thiệp để cái chết đến sớm hơn. Họ thuê hai thầy pháp giết người đã có nhiều thành tựu nhất để chữa trị bệnh, cũng như Xuân Tóc Đỏ để giết chết cụ cố tổ bằng cách bôi nhọ cháu gái cụ. Người cuối cùng trong gia đình, mặc dù cảm thấy xấu hổ khi danh dự gia đình bị hủy hoại, đã ra đi nhờ sự can thiệp nhiệt tình và hiệu quả của đám con cháu. Sự bất hiếu của hai cô con gái của ông Gô-ri-ô không thể tha thứ, nhưng sự bất hiếu của đám con cháu văn minh của cụ cố Hồng lại đáng sợ hơn. Cha mất, hai cô con gái chỉ gửi đến hai chiếc xe với huy hiệu của nhà chồng. Còn đám con cháu, họ rất tấp nập, sôi động, chuẩn bị. Trong đám tang, họ cũng rơi nước mắt, nhưng đó là nước mắt giả dối. Sự giả dối đó mới là điều đáng suy ngẫm và là điều mà nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả.
Nhà văn không bỏ qua bất kỳ chi tiết nào. Một cách liên tục và thường xuyên, ông tạo ra các tình huống hài hước và một cách tình cờ tiết lộ những điều xấu nhất của đám người không biết ơn, học đòi văn minh tầm thường. Mỗi người, mỗi cách, nhà văn đã để họ thể hiện mong muốn của mình, thưởng thức hạnh phúc mà họ mong đợi từ lâu.
Niềm hạnh phúc lớn nhất, lâu bền nhất và chung nhất mà cái chết cụ cố tổ mang lại cho mọi thành viên trong gia đình là được thừa hưởng tài sản. Họ chia tài sản và mỗi người đều được phần của mình. Ngoài ra, mỗi người còn có niềm hạnh phúc riêng, cả trong gia đình và ngoài gia đình.
Trong gia đình, người được hưởng nhiều nhất là cụ cố Hồng, con trai của người chết. Ông rất hạnh phúc khi được mặc áo xô gai, cầm gậy lụ khụ, để mọi người ngưỡng mộ. Đợi phát phục, ông “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng về lúc mặc đồ xô gai…”.
Về phía đám con cháu, chúng ồ lên vì chưa cảm nhận được sự hài lòng, chưa được trình diễn tài hoặc diện những bộ đồ tang thời trang đỉnh nhất mà chúng đã sáng tạo ra để tôn vinh văn minh. Đứng đầu là Văn Minh, người cháu được coi là quý tộc trong gia đình. Ông lo sợ vì không biết phải xử lí Xuân ra sao vì “Xuân dù đã phạm tội quyến rũ một em gái của ông, tố cáo tội ác đồi trụy của một em gái khác của ông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông già đáng thương. Hai tội lỗi nhỏ, một ân huệ lớn…”. Và lo sợ phải trả ơn với kẻ đã giúp mình giết chết ông nội khiến Văn Minh trở nên đúng hợp với gia đình “đang là tang gia bối rối”.
Những người cháu gái, cháu dâu thì vui mừng vì được mặc những bộ đồ xô gai thời thượng, khoe mình còn “một nửa chữ trinh” với những người đến tham dự tang lễ. Cậu bé Tân, cháu trai của người chết, thì hạnh phúc vì được thể hiện khả năng chụp ảnh. Quả thật là buồn cười và đắng cay khi nhìn thấy hạnh phúc của đám con cháu. Nhà văn đã không thể không nói thẳng: “… một đám con cháu chỉ biết vội vàng chôn cất xác chết của ông cố tổ”. Chúng thực sự là “một đám” thú vật chứ không phải con người. Chắc chắn là phải thấy nhiều sự vi diệu trước khi nhà văn có thể có cái nhìn và thái độ cay nghiệt như thế.
Không chỉ những đứa cháu của gia đình vô đạo đó được hưởng hạnh phúc mà còn có những người xung quanh có niềm vui riêng. Đầu tiên là cảnh sát – hai viên cảnh sát thuộc đội 18 là Min Đơ và Min Toa, “Giữa lúc không có ai đáng trách mà lại trách, khiến đám buồn như những thương nhân sắp phá sản, cả hai ông cảnh sát này cảm thấy sung sướng vô cùng khi được thuê để giữ trật tự…”. Các bạn của ông cố Hồng, đeo đầy huy chương đến dự tang lễ thì “mỗi người đều cảm động hơn cả khi nghe tiếng kèn báo tang, não nùng” khi “nhìn thấy làn da trắng nõn nà trong những bộ đồ voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Bộ mặt của xã hội được đại diện bởi những gia đình như thế, những người cầm quyền như thế. Những người đi đưa đám thì cố gắng làm chim, bình luận. Một đám tang lớn, danh dự, không có một người nào cảm thấy buồn bã hoặc đau lòng khi nghĩ về người chết.
Và điểm cao nhất của tình huống trào phúng là chi tiết cuối cùng của đoạn trích. Đó là hành động trả ơn của Xuân với ông Phán. Đoạn văn kết thúc cảnh tang lễ là một phần rất điển hình cho phong cách trào phúng của Vũ Trọng Phụng, “Xuân muốn trả lời thì bỗng ông Phán đưa cho nó một tờ giấy bạc năm đồng gấp tứ… Nó nắm lấy để không ai nhìn thấy, sau đó đi tìm ông Tăng Phú, người thầy lạc trong đám ba trăm người đang buồn rầu và đau đớn về những vấn đề nhà nghèo của ông”. Thản nhiên khi mô tả tang lễ, nhà văn đã quật ngã “xã hội thối nát” bằng những lời chửi rất cay đắng nhất.
Khi mô tả cảnh tang lễ, nhà văn đã lặp đi lặp lại điệp khúc “Cả đám đi…”. Điệp khúc này có ý nghĩa châm biếm, hài hước. Một đám tang lễ lộn xộn và hài hước, đầy đủ thứ loại, học đòi đủ kiểu để khoe khoang. Xe đưa xác đi, người đưa mặt nạ, con cháu hưởng thụ hạnh phúc của mình. Mỗi người một tâm trạng, một mục đích khác nhau, hội tụ lại để thực hiện “nghĩa tử là nghĩa tận” với người chết. Điểm nổi bật nhất và chung nhất của đám người này là sự giả dối, thói đạo đức giả.
Đánh giá từ xã hội, Vũ Trọng Phụng thường được coi là người nhìn nhận cuộc sống rất châm biếm. Bởi ông sợ hãi cái xã hội mà mình đang sống trong đó. Là một người có đạo đức, sống có tình, nhà văn cảm thấy kinh tởm trước thói giả dối. Thế giới của nhân vật trong Số Đỏ đa dạng và phức tạp, nhưng họ đều thể hiện sự giả dối. Chúng là hình ảnh tiêu biểu của xã hội đương thời, và Xuân Tóc Đỏ là minh chứng tốt nhất cho điều đó. Mặc dù không xuất hiện nhiều trong đoạn trích này, sự hiện diện của Xuân trong đám tang đã làm nổi bật vai trò của mình. Nó xuất hiện đúng lúc và tỏ ra rất tự phụ khi đứng trên chiếc xe cùng đại diện của báo Gõ Mõ trong một đám tang danh giá.
Tự nhận mình là những người văn minh tiến bộ nhưng cách sống và ứng xử của đám con cháu trong gia đình của cụ cố Hồng chỉ là minh chứng cho sự vô đạo và lố lăng. Họ không còn biết trân trọng những phẩm giá, tôn trọng đời sống. Họ chỉ là một gia đình đã mục nát.
Qua cách sống của một gia đình tư sản, nhà văn đã tóm tắt được bộ mặt của xã hội Việt Nam trong một giai đoạn phức tạp, khi mà có sự ảnh hưởng lớn từ văn hóa phương Tây. Một số tư sản học đòi theo phong cách Tây nhưng chỉ để theo đuổi sự giàu có, lố lăng, thiếu văn hóa. Cách gọi “toa”, “moa”, “ba”, “mẹ” của lũ con cháu cụ cố Hồng đã trở nên phổ biến trong thời kỳ ba bốn mươi ở thành thị Việt Nam. Vũ Trọng Phụng đã ghi lại một cách chi tiết và thực tế hiện trạng xã hội, thể hiện sự phản ứng mạnh mẽ của mình với những tiêu cực trong xã hội đương thời.
Là một nhà văn nổi tiếng với thể loại phóng sự, những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng luôn phản ánh thời đại. Đoạn trích cho thấy tài năng và phong cách trào phúng độc đáo của ông. Nhà văn đã “lật tẩy”, “phơi bày” lớp vỏ “văn minh”, để lộ ra bản chất xấu xa cực độ của tầng lớp “thượng lưu” tư sản. Tiểu thuyết Số Đỏ đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh, sống động về xã hội thực dân tư sản với nhiều loại người, đặc điểm nổi bật là sự gian trá, dâm đãng, đua đòi một cách vô lý. Tiểu thuyết Số Đỏ xứng đáng là một tác phẩm “làm vinh dự cho mọi nền văn học” (Nguyễn Khải) với giá trị phê phán thực tế.
III - Kết nối
1. Trong văn chương, tôi chẳng bao giờ tin rằng chỉ bằng biết cách bày tỏ, sử dụng từ ngữ khéo léo, quan sát và mô tả sự vật một cách tinh tế, ta có thể tạo ra những tác phẩm thực sự có giá trị. Văn học là sự đổ máu, là trí tưởng tượng - sự nhiệt tình tự nó tạo ra những nhân vật sống động, tạo nên những từ ngữ có góc cạnh, có hình dạng, có hơi thở phồng phất trên trang giấy.
Với Vũ Trọng Phụng, cái tư tưởng – nhiệt tình đó là gì? Đó chính là sự căm hận mãnh liệt đối với một xã hội tàn ác, bất công, vô lý và 'chó hù' thời thuộc Pháp, và khao khát phá hủy đi để xây dựng một xã hội công bằng hơn, mang ý nghĩa hơn.
Để hiểu rõ hơn về sự căm thù này, cần phải tìm hiểu về tâm lý xã hội của lớp thanh niên trí thức tiểu tư sản trong những năm 30 và số phận đen tối của Vũ Trọng Phụng, đồng thời đặt nhà văn vào bối cảnh cụ thể của mình, một trong những trung tâm thương mại và giải trí bừa bãi của Hà Nội cũ (phố Hàng Bạc gần Sầm Công, Mã Mây, Hàng Buồm…). Thanh niên đó, lúc nhận ra giá trị và vai trò của bản thân trong cuộc sống do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, cũng nhận ra rằng mọi cố gắng về sự nghiệp, danh vọng đều bị tàn nhẫn đánh bại. Sức mạnh vô lương của thực dân và tiền bạc đã kiểm soát tất cả.
Nếu không thể tham gia vào cuộc cách mạng, mọi con đường tìm đến thành công bằng đạo đức, tài năng và lao động đều bị từ chối. Một xã hội như vậy sinh ra hàng loạt những kẻ thờ bạo lực và tiền bạc, biến xã hội thành một sân khấu hề hước để đóng vai những diễn viên thật là lố bịch, vô lý mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó hù”, hay “vô nghĩa lí”…
… Đúng vậy, có thể nói như thế: sự căm thù mãnh liệt đối với xã hội thực dân, tư sản tàn bạo, lố bịch, chó hù, thối nát, đó chính là tất cả tài năng của Vũ Trọng Phụng.
2. Để đánh giá đúng một tác phẩm nghệ thuật, cần hiểu rõ đặc điểm thể loại và xu hướng, cảm hứng của nó. Số đỏ là một tiểu thuyết châm biếm viết theo trào lưu hiện thực chủ nghĩa. Từ góc độ châm biếm, thành công của nó là đã mang lại tiếng cười, thậm chí là chuỗi tiếng cười từ đầu đến cuối, thông qua những tình tiết, tình huống hài hước và các biên tập hình tượng, biếm hoạ rất đặc sắc và sinh động. Từ góc độ hiện thực chủ nghĩa, nó đã phát hiện ra một cách chính xác và sâu sắc bản chất và quy luật khách quan của xã hội ở một khía cạnh quan trọng.
Đặc điểm này của tác phẩm tạo ra một mâu thuẫn mà tác giả đã giải quyết một cách tài tình. Mâu thuẫn đó là, một mặt phải sử dụng lối cường điệu, phóng đại thoải mái – điều mà phong cách châm biếm đòi hỏi – để tạo ra những tình huống oái oăm vô lý, những tính cách kỳ dị, lạ lùng ; mặt khác, không được phép phê phán hay chỉ trích bất kỳ điều gì, bất kỳ ai mà nó đề cập. Mâu thuẫn đó được giải quyết trong một truyện ngắn đã khó, trong một truyện dài thì càng khó hơn nhiều.
Có gì vô lý hơn một bà mẹ Tây dâm ô như mụ phó Đoan lại được tôn vinh là “Tiết hạnh khả phong”, một thằng vô dụng, vô học như Xuân Tóc Đỏ mở miệng là “mẹ kiếp”, “nước mẹ gì”, “tình bỏ mẹ”… lại trở thành người được kính trọng, triết gia, nhà thơ, nhà cải cách xã hội anh hùng cứu quốc, hội viên Hội khai trí tiến đức… Rồi ông Phán mọc sừng, Min đơ, Min toa, TYPN, cụ cố Hồng, Văn Minh vợ, Văn Minh chồng, cậu Phước, sư Tăng Phú, lang Tì, làng Phế, cũng như toàn bộ thống sứ, vua Nam, vua Xiêm v.v… toàn bộ là những hình tượng kỳ lạ, tuỳ tiện, toàn bộ là những kẻ hề, con rối mà làm sao có thể xuất hiện trong đời thực! ấy thế mà sau một trận cười sảng khoái, ngẫm lại, ta thấy đúng cả, nhà tiểu thuyết chẳng phải làm ra chuyện đùa đâu. Thậm chí còn thấy những hình tượng đó đã rọi thêm ánh sáng để cho thấy trong xã hội cũ, có rất nhiều Xuân Tóc Đỏ, phó Đoan, cụ cố Hồng, cậu Phước, Văn Minh, TYPN,…