
Tên đầy đủ | Avispa Fukuoka |
---|---|
Biệt danh | Avi, Hachi (Ong bắp cày, ở Japanese), Meishu |
Thành lập | 1982; 42 năm trước (di chuyển tới Fukuoka vào 1995) |
Sân | Sân vận động Best Denki Hakata-ku, Fukuoka |
Sức chứa | 22,563 |
Người quản lý | Masami Ihara |
Giải đấu | J1 League |
2022 | thứ 14 |
Trang web | Trang web của câu lạc bộ |
Avispa Fukuoka (アビスパ福岡, Abisupa Fukuoka) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Nhật Bản, hiện đang thi đấu tại giải J1 League. Đội bóng có trụ sở ở Hakata, Fukuoka. 'Avispa' nghĩa là 'tò vò' trong tiếng Tây Ban Nha. Trước đây, đội được gọi là Fujieda Blux và có trụ sở tại Fujieda, Shizuoka trước khi chuyển đến Fukuoka vào năm 1994. Sau khi giành chức vô địch Japan Football League 1995 với tên Fukuoka Blux và gia nhập J. League từ mùa giải 1996, Avispa Fukuoka đã trở thành câu lạc bộ J. League bị rớt hạng nhanh nhất khỏi các giải đấu của Nhật Bản như J. League Hạng 1, Hạng 2, J. League Cup hoặc Emperor's Cup.
Lịch sử
Thời kỳ tại Fujieda
Câu lạc bộ được thành lập dưới tên Chuo Bohan F.C. vào năm 1982 bởi các nhân viên của công ty bảo mật Chuo Bohan ở Fujieda, Shizuoka. Họ được thăng lên Japan Soccer League Hạng 2 vào năm 1991. Tham gia Japan Football League Hạng 2 vào năm 1992 và thăng lên Hạng 1 vào năm 1993. Đổi tên thành Chuo Bohan F.C. Fujieda Blux nhằm gia nhập J. League. Tuy nhiên, do khó khăn trong việc tìm sân vận động phù hợp và sự cạnh tranh địa phương với Júbilo Iwata và Shimizu S-Pulse, các fan bóng đá tại Shizuoka đã trở nên bão hòa. Do đó, vào năm 1994, họ chuyển đến Fukuoka, nơi cư dân mong mỏi có một đội bóng J. League. Họ đổi tên thành Fukuoka Blux và gia nhập J. League.
Lưu ý: Câu lạc bộ nghiệp dư Chuo Bohan F.C. hoạt động tích cực tại Fujieda cho đến năm 2006.
1995 (JFL)
Mùa giải đầu tiên tại Fukuoka chứng kiến họ giành chức vô địch JFL với sự hỗ trợ của người Argentina Hugo Maradona và được thăng lên J. League.
1996–1998 (J. League)
Họ quyết định đổi tên thành Avispa Fukuoka để tránh xung đột thương hiệu với thương hiệu thời trang nam Brooks Brothers. Câu lạc bộ chiêu mộ các cầu thủ kỳ cựu như cựu tuyển thủ quốc gia Nhật Bản Satoshi Tsunami và hậu vệ Hideaki Mori, nhưng kết thúc mùa giải 1996 ở vị trí 15. Họ tiếp tục đứng cuối bảng trong hai mùa giải liên tiếp 1997-1998. Cuối mùa giải 1998, Avispa tham gia vào các trận play-off nhưng suýt bị xuống hạng. Trong thời gian này, tiền đạo Yoshiteru Yamashita và tiền vệ Chikara Fujimoto được gọi vào đội tuyển quốc gia Nhật Bản.
Lưu ý: Chưa có đội bóng nào xuống hạng từ J.League trước năm 1998. Quy định xuống hạng và thăng hạng chính thức được áp dụng từ năm 1999 với việc tổ chức play-off đầu tiên vào năm 1998.
1999 – 2001 (J1)
Năm 1999, đội củng cố lực lượng bằng cách chiêu mộ các cầu thủ kỳ cựu như Nobuyuki Kojima và Yasutoshi Miura từ tuyển quốc gia Nhật Bản, cùng với Nenad Maslovar từ Nam Tư. Họ đã thành công trong cuộc chiến trụ hạng và giữ lại suất tại J1. Vào năm 2000, cầu thủ người Argentina David Bisconti và tiền vệ người Romania Pavel Badea gia nhập Fukuoka, giúp đội xếp thứ 6 trong giai đoạn hai của giải. Tuy nhiên, vào năm 2001, sau khi ký hợp đồng với Noh Jung-Yoon từ Hàn Quốc và Yoshika Matsubara, đội kết thúc ở vị trí 15 và phải xuống hạng J2.
2002 – 2005 (J2)
Năm 2002, đội bóng giữ lại cầu thủ dày dạn kinh nghiệm và đào tạo những tài năng trẻ như Daisuke Nakaharai và Yoshiteru Yamashita, nhưng chỉ kết thúc ở vị trí thứ 8 trên 10. Với sự dẫn dắt của quản lý mới Hiroshi Matsuda, đội quyết định tập trung phát triển cầu thủ trẻ từ các trường trung học địa phương thay vì chiêu mộ những cầu thủ giàu kinh nghiệm từ các đội khác. Mặc dù gặp khó khăn ban đầu, họ đã cải thiện phong độ và kết thúc ở vị trí thứ 4. Năm 2004, họ xếp thứ 3 và đủ điều kiện tham dự play-off, nhưng bị Kashiwa Reysol loại bỏ sau hai trận lượt đi và về (tổng tỷ số 2–0). Năm 2005, họ giành vị trí thứ 2 và được lên chơi ở J1. Cầu thủ của Avispa, Hokuto Nakamura và Tomokazu Nagira, đại diện Nhật Bản tại Giải vô địch trẻ thế giới 2005 ở Hà Lan.
2006 (J1)
Họ đã phải đối mặt với cuộc chiến trụ hạng ngay từ đầu mùa giải, kết thúc ở vị trí 16 và bị xuống hạng J2 sau trận play-off với Vissel Kobe, hòa 0–0 trên sân khách và 1–1 trên sân nhà. Giống như nhiều đội bóng J2 khác, điều này dẫn đến vấn đề tài chính. Tờ Daily Yomiuri cho biết Avispa cần vay 535 triệu yen từ chính quyền địa phương trong năm 2006.
2007 – 2008 (J2)
Dưới sự dẫn dắt của quản lý mới Pierre Littbarski, cựu cầu thủ Đức từ A-League Australia, đội đã có sự bổ sung của các cầu thủ giàu kinh nghiệm như Mark Rudan, Joel Griffiths và Ufuk Talay. Tuy nhiên, Littbarski không thể dẫn dắt đội đến thành công đáng kể. Sau khi kết thúc ở vị trí thứ 7 năm 2007 và không thể cạnh tranh với nhóm đầu, Littbarski bị sa thải giữa năm 2008 và được thay thế bởi cựu cầu thủ Avispa, Yoshiyuki Shinoda.
2009 (J2)
Sự ra đi của Littbarski và các cầu thủ Australia đã mở đường cho những tài năng trẻ từ trường đại học Kyushu. Mặc dù bắt đầu mùa giải khá ổn, Avispa nhanh chóng tụt dốc với những thất bại nặng nề như 6-0 trước Ventforet Kofu và 5-0 trước Mito Hollyhock. Kết quả là câu lạc bộ kết thúc ở nửa dưới bảng xếp hạng, và hy vọng thăng hạng J2 thêm một lần nữa bị tan biến.
2010 (J2)
Yoshiyuki Shinoda đã tăng cường đội hình cho mùa giải 2010 bằng cách chiêu mộ các cầu thủ từ đội đại học địa phương, đồng thời đón tiền vệ Kosuke Nakamachi và Genki Nagasato, những người trước đây đã chơi cùng nhau tại Shonan Bellmare.
Mùa giải bắt đầu chậm chạp với đội chỉ có một điểm vào ngày 15 tháng 3. Tuy nhiên, sau đó, Avispa đã cải thiện đáng kể, giành chiến thắng 17 trong 25 trận tiếp theo, bao gồm cả chiến thắng dễ dàng trước JEF United. Với sự vượt trội điểm số so với JEF United, Avispa đã tiến gần tới việc trở lại J1 trong hai trận đấu cuối của mùa giải.
Tiền đạo chủ lực Tetsuya Okubo cùng với bốn cầu thủ khác đã được đưa vào đội hình vào cuối mùa giải, chuẩn bị cho mùa giải J1.
2011 (J1)
Khi gia nhập J1, đội bóng đã có một số thay đổi lớn. Takuya Matsuura được bổ sung để thay thế Genki Nagasato, người đã chuyển đến Ventforet Kofu. Shogo Kobara, Kim Min-je và Takumi Wada được chiêu mộ để củng cố hàng phòng ngự, trong khi Sho Naruoka và Kentaro Shigematsu được đưa vào để tăng cường khả năng ghi bàn và giúp đội trụ hạng.
Mặc dù được các chuyên gia J-League dự đoán, đội kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 18. Các cầu thủ gặp khó khăn trong việc hòa nhập và không giành được điểm nào trong 13 trận đấu đầu tiên của mùa giải.
Dù có chút cải thiện, việc huấn luyện viên Shinoda rời câu lạc bộ đã dẫn đến sự thay thế bằng huấn luyện viên trưởng mới Tetsuya Asano.
Mặc dù đã cải thiện kết quả, đặc biệt với chiến thắng 6-0 trước Montedio Yamagata, câu lạc bộ vẫn không thể thoát khỏi khu vực xuống hạng và kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 17, bị xuống hạng trở lại J2.
Vào cuối mùa giải, người quản lý lại được thay đổi, với Koji Maeda được bổ nhiệm thay thế Asano.
2012 (J2)
Đội bóng đã cố gắng chiến đấu để trở lại J1, nhưng kết thúc ở vị trí thứ 18, mùa giải tồi tệ nhất trong lịch sử câu lạc bộ; chỉ thắng 9 trận và để thủng lưới 68 bàn (chỉ sau Gainare Tottori về số bàn thua).
Cuối mùa giải chứng kiến Koji Maeda rời câu lạc bộ khi họ bắt đầu kế hoạch xây dựng cho năm 2013 tốt hơn.
2013 (J2)
Câu lạc bộ đã mời một huấn luyện viên người nước ngoài lần đầu tiên kể từ Pierre Littbarski, với Marijan Pusnik từ Slovenia được bổ nhiệm. Ông tập trung vào việc phát triển các cầu thủ trẻ, trao cơ hội cho tân binh Yuta Mishima và Takeshi Kanamori trong đội hình chính.
Kết quả trên sân ngay lập tức cải thiện và câu lạc bộ cạnh tranh vị trí play-off. Tuy nhiên, sự sụt giảm phong độ giữa mùa giải cùng với thông báo về khoản nợ 50 triệu ¥ đã khiến câu lạc bộ kết thúc ở vị trí thứ 14. Pusnik đồng ý tiếp tục làm quản lý thêm một mùa giải.
2014 (J2)
Avispa kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 16. Hợp đồng của Pusnik không được gia hạn và ông trở về Slovenia.
2015 (Thăng hạng lên J1)
Câu lạc bộ đã mời huấn luyện viên mới Masami Ihara, người đã từng làm việc với Kashiwa Reysol. Dưới sự dẫn dắt của ông, đội đứng thứ ba và giành quyền thăng hạng lên J1 qua vòng play-off.
Cầu thủ hiện tại
- Tính đến ngày 19 tháng 1 năm 2022
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ áp dụng cho đội tuyển quốc gia được xác định theo điều lệ của FIFA. Các cầu thủ có thể có nhiều quốc tịch ngoài FIFA.
|
|
Cho mượn
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ áp dụng cho đội tuyển quốc gia được xác định theo điều lệ FIFA. Các cầu thủ có thể mang nhiều quốc tịch ngoài FIFA.
|
Ghi nhận như thành viên của J. League
Mùa giải | Giải đấu | Tổng số đội | Vị trí | Bình quân tham dự giải đấu | J. League Cup | Emperor's Cup |
---|---|---|---|---|---|---|
1996 | J1 | 16 | 15 | 9,737 | Vòng loại | Vòng 4 |
1997 | J1 | 17 | 17 | 8,653 | Vòng loại | Vòng 4 |
1998 | J1 | 18 | 18 | 10,035 | Vòng loại | Vòng 4 |
1999 | J1 | 16 | 14 | 11,467 | Vòng 2 | Vòng 4 |
2000 | J1 | 16 | 12 | 13,612 | Vòng 2 | Vòng 4 |
2001 | J1 | 16 | 15 | 13,822 | Vòng 2 | Vòng 3 |
2002 | J2 | 12 | 8 | 6,491 | - | Vòng 4 |
2003 | J2 | 12 | 4 | 7,417 | - | Vòng 3 |
2004 | J2 | 12 | 3 | 8,743 | - | Vòng 4 |
2005 | J2 | 12 | 2 | 10,786 | - | Vòng 4 |
2006 | J1 | 18 | 16 | 13,780 | Vòng loại | Vòng 5 |
2007 | J2 | 13 | 7 | 9,529 | - | Vòng 4 |
2008 | J2 | 15 | 8 | 10,079 | - | Vòng 3 |
2009 | J2 | 18 | 11 | 7,763 | - | Vòng 3 |
2010 | J2 | 19 | 3 | 8,821 | - | Tứ kết |
2011 | J1 | 18 | 17 | 10,415 | Vòng loại | Vòng 3 |
2012 | J2 | 22 | 18 | 5,586 | - | Vòng 3 |
2013 | J2 | 22 | 14 | 5,727 | - | Vòng 2 |
2014 | J2 | 22 | 16 | 5,062 | - | Vòng 2 |
2015 | J2 | 22 | 3 | 8,736 | - | Vòng 3 |
2016 | J1 | 18 | 18 | 12,857 | Tứ kết | Vòng 2 |
Huấn luyện viên
|
|
|
Liên kết ngoài
- (tiếng Nhật) Trang chính thức của Avispa Fukuoka
- “Avispa Fukuoka” (bằng tiếng Nhật).
Bóng đá cấp câu lạc bộ Nhật Bản | |||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| |||||||||||||||
| |||||||||||||||
| |||||||||||||||
| |||||||||||||||
| |||||||||||||||
| |||||||||||||||
| |||||||||||||||
|