Thành lập | 5 tháng 5 năm 1895 |
---|---|
Sân vận động | Merkur Spiel-arena |
Sức chứa | 54.600 chỗ ngồi |
Huấn luyện viên | Uwe Rösler |
Giải đấu | Bundesliga |
thứ 10 (2018-19) | |
Trang web | Trang web của câu lạc bộ |
Đội bóng Fortuna Düsseldorf (phát âm [fɔʁˈtuːna ˈdʏsl̩dɔʁf] liên_kết=| Về âm thanh này) là một câu lạc bộ bóng đá Đức ở Düsseldorf, North Rhine-Westphalia. Được thành lập vào năm 1895, Fortuna tham gia giải đấu đầu tiên năm 1913 và là một đội bóng luôn chơi ở hạng đấu cao nhất nước Đức từ đầu những năm 1920 cho đến khi thành lập Bundesliga năm 1963. Mùa giải 2019-20 là mùa giải thứ 25 của đội bóng được chơi tại Bundesliga và là mùa giải thứ 2 liên tiếp của đội bóng kể từ khi được thăng hạng từ giải hạng 2 Đức mùa giải 2017-18
Lịch sử
Từ khi thành lập cho đến Thế chiến II
Câu lạc bộ được thành lập từ một câu lạc bộ thể dục dụng cụ có tên Turnverein Flingern vào ngày 5 tháng 5 năm 1895 tại làng Flingern, ngày nay nó là một khu phố ở phía đông thành phố Düsseldorf. 2 mặt khác trong lịch sử của câu lạc bộ: Düsseldorfer Fußballklub Spielverein, thành lập vào năm 1908 và FK Alemania 1911 và 1 năm sau đó đổi tên thành Fortuna 1911. Vào khoảng giữa năm 1913, hai câu lạc bộ trên sát nhập lại với nhau và lấy tên là Düsseldorfer Fußball-Club Fortuna 1911. Mùa giải ra mắt của đội bóng tại Westdeutschen Spielverband vào năm 1913-14. Sau đó thì Turnverein Flingern cũng sát nhập vào Fortuna và đội bóng đổi tên thành Düsseldorfer Turn- und Sportverein Fortuna vào ngày 15 tháng 11 năm 1919.
Vào cuối những năm 1920, Fortuna đã giành được danh hiệu đầu tiên ở giải đấu cao nhất. Đó là danh hiệu Bezirksliga cấp quận vào năm 1927. Cầu thủ đầu tiên được triệu tập lên đội tuyển quốc gia Đức của đội bóng vào năm 1928 (Ernst Albrecht), và giành thêm một danh hiệu Bezirksliga thứ hai vào năm 1929. Đội tiếp tục thi đấu tốt vào những năm 1930, giành được danh hiệu quận thứ ba và thứ tư trên đường đến chức vô địch bóng đá Tây Đức năm 1931 và thành công lớn nhất của câu lạc bộ, một chức vô địch bóng đá Đức năm 1933 trước Schalke 04, đội bóng đang trên đà để trở thành một thế lực của bóng đá Đức. Fortuna là đội đầu tiên giành được danh hiệu mà không để thủng lưới bất kì bàn thua nào trong các trận đấu của giải đấu. Đội bóng đã thắng đậm Vorwärts-Rasensport Gleiwitz(9-0), Arminia Hannover (3–0), Eintracht Frankfurt (4–0) và Schalke 04 (3-0) trên hành trình giành chức vô địch quốc gia đầu tiên
Trong mùa giải tiếp theo, đội bóng bắt đầu chơi ở Gauliga Niederrhein, 1 trong 16 giải đấu hàng đầu được thành lập trong thời kì tổ chức lại bóng đá Đức dưới thời Đức Quốc Xã. Düsseldorf thống trị giải đấu trong suốt những năm 1930 với tư cách là nhà vô địch năm lần liên tiếp từ năm 1936 đến 1940, nhưng thất bại trong trận chung kết giải vô địch quốc gia năm 1936 (thua 1-2 trước 1. FC Nürnberg) và trận chung kết của Tschammerpokal, tiền thân của DFB-Pokal ngày nay, vào năm 1937 (thua 1-2 trước Schalke 04). Câu lạc bộ bị xuống hạng vào năm 1942 nhưng đã nhanh chóng lên hạng ngay mùa giải sau đó. Vào mùa giải 1944-45, đội bóng chỉ chơi được 2 trận đấu vì Đức Quốc Xã đã đầu hàng trước quân Đồng Minh.
Cầu thủ nổi tiếng nhất của đội bóng vào giai đoạn này là Paul Janes, cầu thủ khoác áo đội tuyển Đức nhiều lần nhất kể từ năm 1942-1970 (71 lần), đội trưởng đội tuyển Đức (1939-1942). Stanislaus Kobierski, người đã khoác áo đội tuyển Đức 26 lần, ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Đức trong lịch sử các kì FIFA World Cup của đội tuyển Đức.
Thời kỳ hậu chiến
Sau Chiến tranh Thế giới II, chính quyền chiếm đóng của quân Đồng minh đã ra lệnh giải thể tất cả các tổ chức thể thao ở Đức. Fortuna được tái lập vào năm 1945 và sau đó tham gia chủ yếu ở giải Oberliga West (I) từ năm 1947 cho đến khi Bundesliga được thành lập vào năm 1963. Đội bóng thường xếp ở vị trí dưới giữa bảng xếp hạng, nhưng cũng đã tham gia 3 trận chung kết DFB-Pokal, nhưng đều thua Bayern Munich, VfB Stuttgart và 1.FC Nürnberg. Trong thời kỳ này, những cầu thủ nổi bật nhất của đội bóng là Toni Turek, thủ môn của đội tuyển Đức tại World Cup 1954, Erich Juskowiak (cầu thủ tham dự World Cup 1958) và huấn luyện viên đội tuyển Đức Jupp Derwall.
Thành tích của Fortuna không đủ để có một vị trí trong số 16 đội ban đầu của Bundesliga mới thành lập vào năm 1963, nhưng câu lạc bộ đã thi đấu tốt và sau đó tham gia Bundesliga vào năm 1966-67. Mặc dù đã giành chiến thắng đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ tại giải đấu khi đánh bại Dortmund 2-1, đội bóng cũng giành được cúp C2 Châu Âu ngay ở trận đấu đầu tiên tham dự giải. Tuy nhiên, cuối mùa giải, đội bóng đã xuống hạng và chỉ trở lại Bundesliga vào năm 1971. Đội bóng đã chơi 16 mùa trong Bundesliga và hai lần về đích thứ ba (mùa 1972-73 và 1973-74). Vào ngày 9 tháng 12 năm 1978, đội bóng đã đánh bại Bayern Munich với tỉ số 7-1, đây vẫn là trận thua nặng nề nhất mà Bayern phải nhận trong lịch sử tham gia giải. Cũng trong năm này, câu lạc bộ đã tham dự trận chung kết DFB-Pokal nhưng thua với tỉ số 0-2 trước đối thủ lớn, và mùa giải sau đó đội bóng đã giành được chức vô địch sau khi đánh bại Hertha với tỉ số 1-0 và tiếp tục giành thêm một chức vô địch vào năm tiếp theo khi đánh bại [1]1. FC Köln. Trong giai đoạn này, đội bóng đã thiết lập kỷ lục 18 trận thắng liên tiếp tại DFB-Pokal từ năm 1978-1981.
Thành tích tốt nhất của câu lạc bộ trong các giải đấu cúp Châu Âu là vào trận chung kết cúp C2 năm 1979, khi đội bóng thua Barcelona với tỉ số 4-3 tại Basel.[2]
Câu lạc bộ đã đạt được thành công chủ yếu nhờ vào các cầu thủ như anh em Allofs (Klaus Allofs và Thomas Allofs), Gerd Zewe, Dieter Herzog, Reiner Geye, Wolfgang Seel và Rudi Bommer. Trong khoảng thời gian từ 1960-1967, Peter Meyer đã ghi được 119 bàn thắng sau 174 trận.
Kể từ khi bị xuống hạng vào năm 1987, câu lạc bộ đã liên tục trải qua các mùa giải leo lên và rớt xuống giữa các giải đấu. Fortuna đã tham gia Bundesliga trong 5 mùa giải từ năm 1989-92 và 1995-97, sau đó rớt xuống giải Oberliga Nordrhein (hạng 4 Đức) vào năm 2002-04. Vào năm 2001, câu lạc bộ tránh được việc xuống hạng xuống hạng tư do có 2 đội bóng khác bị từ chối bản quyền thi đấu ở giải hạng 3 vì vấn đề tài chính. Câu lạc bộ trong thời điểm này cũng gặp khó khăn về tài chính nhưng đã vượt qua được. Vào năm 2001-03, câu lạc bộ được tài trợ bởi nhóm nhạc rock Die Toten Hosen.
Những mùa giải gần đây của câu lạc bộ.
Vào mùa giải 2008-09, câu lạc bộ tham gia giải 3.Liga mới thành lập và ngay lập tức đạt vị trí thứ 2, qua đó lên hạng trực tiếp lên 2. Bundesliga và về đích thứ 4. Mùa giải 2009-10, câu lạc bộ là đội duy nhất trong 3 giải đấu cao nhất của Đức không thua bất kỳ trận nào trên sân nhà.
Sau một mùa giải 2009-10 hứa hẹn, mùa giải sau đó bắt đầu không tốt khi câu lạc bộ thua 6 trận liên tiếp ở đầu mùa và xếp cuối bảng, chỉ ghi được 2 bàn. Mặc dù khởi đầu tồi tệ như vậy, câu lạc bộ đã lấy lại phong độ và kết thúc mùa giải thứ 7. Mùa giải 2011-12 bắt đầu xuất sắc khi đội ghi được kết quả bất bại trong lượt đi (12 thắng, 5 hòa và 0 thua). Người hâm mộ câu lạc bộ bắt đầu hy vọng vào việc thăng hạng, nhưng lượt về của mùa giải đối với câu lạc bộ diễn ra khó khăn và họ đã không thể duy trì vị trí của mình trên bảng xếp hạng, thua 4 trận và hòa nhiều trận, rơi xuống vị trí thứ 3 khi mùa giải kết thúc và buộc phải tham gia play-off tranh suất thăng hạng với đội xếp thứ 16 Bundesliga là Hertha Berlin. Trận lượt đi với Hertha diễn ra vào ngày 10 tháng 5 năm 2012 tại Berlin và câu lạc bộ đã giành chiến thắng 2-1. 5 ngày sau đó, họ hòa trong trận lượt về quyết định trên sân nhà, qua đó thăng hạng lên Bundesliga và đẩy Hertha xuống 2. Bundesliga. Người hâm mộ của Hertha không kiềm chế được sự thất vọng, ném pháo sáng xuống sân và các cầu thủ. 1 phút trước khi kết thúc trận đấu, những người hâm mộ của Fortuna chạy vào sân để ăn mừng việc thăng hạng.
Việc thăng hạng lên Bundesliga là một thành tựu đặc biệt đối với đội trưởng Andreas Lambertz, trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử bóng đá Đức thăng hạng ba lần cùng một câu lạc bộ, từ Oberliga hạng tư sau đó lên Bundesliga. Đối với tiền đạo Sascha Rösler, đây đã là lần thứ 4 anh thăng hạng từ 2. Bundesliga lên Bundesliga.
Cùng với việc thăng hạng gần đây, Fortuna đã thiết lập kỷ lục mới trong lịch sử bóng đá Đức là câu lạc bộ duy nhất từng rớt xuống Bundesliga và sau đó lại lên hạng từ giải hạng 4 (1997-2002) đến Bundesliga (2004-2012).
Fortuna bắt đầu mùa giải 2012-13 tại Bundesliga khá tốt với vị trí thứ 5 sau 5 trận đầu và không còn lo lắng về việc xuống hạng. Tuy nhiên, chiến thắng 1-0 trước SpVgg Greuther Fürth vào ngày 16 tháng 2 lại là trận thắng duy nhất của họ trong mùa giải này. Sau đó, Fortuna thua Hannover 96 0-3, Augsburg thắng Fürth và Hoffenheim kỳ lạ thắng Dortmund đã khiến họ rơi xuống vị trí cuối bảng. Cuối cùng, Fortuna xếp thứ 17 và bị xuống hạng xuống 2. Bundesliga.
Việc xuống hạng của Fortuna là kết quả của một mùa giải thảm họa. Trong 8 trận cuối cùng, họ không giành được chiến thắng nào dù chỉ cần thắng 1 trận để trụ hạng tại Bundesliga thêm một mùa. Thành tích tồi tệ này dẫn đến việc sa thải huấn luyện viên trưởng Norbert Meier.
Khi rơi xuống 2. Bundesliga, Fortuna đã thể hiện sự yếu kém. Trong 4 mùa giải từ 2013-2017, họ luôn xếp giữa bảng và thường phải đấu để trụ hạng, hiếm khi thách thức cho một suất lên chơi Bundesliga. Trong 4 mùa giải này, Fortuna đã thay đổi nhiều huấn luyện viên từ Oliver Reck, Frank Kramer, đến cựu cầu thủ Mike Buskens và nhiều người khác nhưng vẫn chưa thành công.
Vào tháng 3 năm 2016, Friedhelm Funkel nhận vai trò huấn luyện viên của Fortuna. Trận đầu tiên dưới sự dẫn dắt của Funkel, Fortuna đã giành chiến thắng 4-3 trước 1.FC Kaiserslautern, chấm dứt chuỗi trận không thắng kéo dài một tháng. Bước khởi đầu của Funkel đánh dấu giai đoạn ổn định và thành công của câu lạc bộ.
Đầu mùa giải 2017-18, Fortuna bắt đầu mạnh mẽ với vị trí đầu bảng sau 4 trận đầu với 3 chiến thắng và 1 trận hòa. Suốt mùa giải, họ duy trì vị trí thứ 3 ổn định. Dù có giai đoạn thua 3 trận liên tiếp vào đầu tháng 4, Fortuna đã vực dậy bằng 2 chiến thắng liên tiếp, giúp họ lên hạng lên Bundesliga. Trận đấu cuối mùa, họ đánh bại 1. FC Nürnberg với tỉ số 3-2, giành chức vô địch 2. Bundesliga dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Friedhelm Funkel, lần thứ 6 ông dẫn dắt câu lạc bộ lên hạng.
Fortuna trở lại Bundesliga mùa giải 2018-19 với sự hân hoan của người hâm mộ Düsseldorf. Lượt đi mùa giải đánh giá là mạnh mẽ nhưng không ổn định. Họ thường thi đấu tốt trước các đội hàng đầu như RB Leipzig, Hoffenheim và Dortmund, và hòa Bayern Munich với tỷ số 3-3 ở phút 90+3. Tuy nhiên, họ thiếu ổn định và thường gặp thất bại trước các đội yếu hơn như Augsburg, Nürnberg và Mainz. Sau lượt đi, họ xếp thứ 14 và kết thúc mùa ở vị trí thứ 10, có thêm một năm chơi tại Bundesliga.
Mùa giải 2019-20 bắt đầu với nhiều kỳ vọng từ người hâm mộ, nhưng Fortuna lại không đạt được kết quả như mong đợi. Sau lượt đi với vị trí thứ 16, với 4 chiến thắng, 3 trận hòa và 10 thất bại, sự lo lắng lan tỏa trong cầu thủ và CĐV. Huấn luyện viên Funkel bị sa thải và Uwe Rösler được bổ nhiệm nhưng thành tích vẫn không cải thiện. Fortuna chỉ giành được 1 chiến thắng trong 6 trận đầu tiên dưới sự dẫn dắt của Rösler, với 4 trận hòa và 1 thất bại nặng nề trước Borussia Mönchengladbach.
Đội hình
Đội hình hiện tại
- Cập nhật đến ngày 1 tháng 2 năm 2020
|
|
Rời khỏi đội hình
|
Được cho mượn
|
|
Thành tích đội bóng
- Đạt chức vô địch
- Vô địch Bundesliga
- Vô địch: 1933
- Á quân: 1936
- 2. Bundesliga (II)
- Vô địch: 1988-89, 2017-18
- Regionalliga West (II)
- Vô địch: 1965
- Oberliga Nordrhein (III)
- Vô địch: 1993
- Cúp Đức
- DFB-Pokal
- Vô địch: 1978-79, 1979-80
- Á quân:1937, 1956-1957, 1957-1958, 1961-1962, 1977-1978
- Cúp Quốc tế
- European Cup Winners' Cup
- Á quân: 1978-79
- Giải vô địch Tây Đức
- Vô địch: 1931
- Á quân: 1933
- Gauliga Niederrhein / Berg-Mark (I)
- Vô địch: 1926–27, 1928–29, 1930–31, 1932–33, 1935–36, 1936–37, 1937–38, 1938–39, 1939–40, 1946–47
- Cúp Tây Đức
- Vô địch: 1955–56, 1956–57, 1957–58, 1961–62, 1970–71 (II)
Lịch sử câu lạc bộ
- 1913–1914 C-Klasse (hạng 3) - vô địch 1914
- 1914–1918 B-Klasse (hạng 2) - vô địch 1915, 1916, 1917, 1918
- 1918–1919 A-Klasse (hạng 1)
- 1919–1920 A-Klasse (hạng 2) – vô địch: 1920
- 1920–1921 Gauliga Berg Mark (hạng 1)
- 1921–1922 A-Klasse (hạng 2)
- 1922–1933 Gauliga Berg Mark (hạng 1) –vô địch : 1927, 1929,1931,1933
- 1933–1942 Gauliga Niederrhein (hạng 1) vô địch: 1943
- 1942–1943 Bezirksklasse (hạng 1) – vô địch: 1943
- 1943–1944 Gauliga Niederrhein (hạng 1)
- 1944–1946 không có giải đấu (thế chiến thứ II)
- 1946–1947 Bezirksliga Berg Mark (hạng 1) – Champions: 1947
- 1947–1949 Oberliga West (hạng 1)
- 1949–1950 2. Liga West (hạng 2)
- 1950–1960 Oberliga West (hạng 1)
- 1960–1961 2. Liga West (hạng 2)
- 1961–1963 Oberliga West (hạng 1)
- 1963–1966 Regionalliga West (hạng 2) – Vô địch: 1966
- 1966–1967 Bundesliga (hạng 1)
- 1967–1971 Regionalliga West (hạng 2)
- 1971–1987 Bundesliga (hạng 1)
- 1987–1989 2. Bundesliga (hạng 1) – vô địch: 1989
- 1989–1992 Bundesliga (hạng 1)
- 1992–1993 2. Bundesliga (hạng 2
- 1993–1994 Oberliga Nordrhein (hạng 3) – vô địch: 1994
- 1994–1995 2. Bundesliga (hạng 2)
- 1995–1997 Bundesliga (hạng 2)
- 1997–1999 2. Bundesliga (hạng 2)
- 1999–2000 Regionalliga West/Südwest (hạng 3)
- 2000–2002 Regionalliga Nord (hạng 3)
- 2002–2004 Oberliga Nordrhein (hạng 4)
- 2004–2008 Regionalliga Nord (hạng 3)
- 2008–2009 3. Liga (hạng 3)
- 2009–2012 2. Bundesliga (hạng 2)
- 2012–2013 Bundesliga (hạng 1)
- 2013–2018 2. Bundesliga (hạng 1) – vô địch: 2018
- 2018–hiện tại Bundesliga (hạng 1)
Các mùa giải gần đây
mùa | giải | hạng đâu | vị trí cuối cùng | DFB-Pokal | khán giả trung bình | Chân sút hàng đầu |
---|---|---|---|---|---|---|
2001–02 | Regionalliga Nord | 3 | 17th | không vượt qua vòng loại | 5,719 | Frank Mayer (7) |
2002–03 | Oberliga Nordrhein | 4 | 8th | không vượt qua vòng loại | 3,750 | Frank Mayer (18) |
2003–04 | Oberliga Nordrhein | 4 | 2nd | không vượt qua vòng loại | 5,500 | Frank Mayer (9) |
2004–05 | Regionalliga Nord | 3 | 8th | vòng 1 | 8,611 | Frank Mayer (9) |
2005–06 | Regionalliga Nord | 3 | 5th | không vượt qua vòng loại | 7,387 | Marcus Feinbier (15) |
2006–07 | Regionalliga Nord | 3 | 10th | không vượt qua vòng loại | 10,603 | Marcus Feinbier (9) |
2007–08 | Regionalliga Nord | 3 | 3rd | không vượt qua vòng loại | 12,682 | Axel Lawaree (15) |
2008–09 | 3. Liga | 3 | 2nd | không vượt qua vòng loại | 14,875 | Marco Christ (11) |
2009–10 | 2. Bundesliga | 2 | 4th | vòng 1 | 28,007 | Martin Harnik (13) |
2010–11 | 2. Bundesliga | 2 | 7th | vòng 1 | 21,051 | Jens Langeneke (8) |
2011–12 | 2. Bundesliga | 2 | 3rd | vòng 16 đội | 31,900 | Sascha Rösler (13) |
2012–13 | Bundesliga | 1 | 17th | vòng 16 đội | 45,991 | Dani Schahin (8) |
2013–14 | 2. Bundesliga | 2 | 6th | vòng 1 | 33,982 | Charlison Benschop (12) |
2014–15 | 2. Bundesliga | 2 | 10th | vòng 1 | 29,944 | Charlison Benschop (13) |
2015–16 | 2. Bundesliga | 2 | 14th | vòng 2 | 25,897 | Kerem Demirbay (10) |
2016–17 | 2. Bundesliga | 2 | 11th | vòng 2 | 25,978 | Rouwen Hennings (9) |
2017–18 | 2. Bundesliga | 2 | 1st | vòng 2 | 28,913 | Rouwen Hennings (13) |
2018–19 | Bundesliga | 1 | 10th | vòng 16 đội | 43,928 | Benito Raman Dodi Lukebakio (10) |
Sân nhà
- Lichtplatz (1908-19)
- Vennhauser Straße (1919-30)
- Paul-Janes-Stadion (1930–53, 1970–72, 1975–76 (Evasive), 2002–05, 2005–07 (Evasive))
- Rheinstadion (1953–70, 1972–2002)
- Merkur Spiel-Arena (2005- hiện tại)
Trận derby Rheinland
Đối thủ truyền kiếp của Fortuna là 1. FC Köln, bắt nguồn từ sự gần gũi về địa lý giữa Düsseldorf và Cologne cũng như sự cạnh tranh lịch sử giữa hai thành phố. Tuy nhiên, trong những mùa giải gần đây, hai câu lạc bộ hiếm khi thi đấu trong cùng một giải đấu, khiến các cuộc đối đầu trực tiếp ngày càng ít đi. Mùa giải 2013–14 đánh dấu lần cuối cùng hai đội gặp nhau trong các trận đấu cạnh tranh khi cả hai thi đấu ở Giải hạng hai. Mùa giải 2018-19, Fortuna đã thăng hạng lên Bundesliga nhưng 1. FC Köln xuống 2. Bundesliga, do đó trận derby này đã không diễn ra. Tuy nhiên, sau đó 1. FC Köln trở lại Bundesliga trong mùa giải 2019-20 và đã có hai trận derby diễn ra. Trong trận lượt đi, Fortuna đã đánh bại Köln 2-0 trên sân nhà với hai bàn thắng của Rouwen Hennings và Erik Thommy,[9] trận lượt về dự kiến diễn ra vào ngày 21 tháng 3 năm 2020 trên sân RheinEnergieStadion của 1. FC Köln nhưng đã bị hoãn vì đại dịch COVID-19 tại Đức. [10]
Các liên kết bên ngoài
Bóng đá ở Đức |
---|
Giải bóng đá vô địch quốc gia Đức |
---|