Đơn vị hay Ban, Muban khi ghi bằng chữ Latinh, là đơn vị cư trú, đồng thời là đơn vị xã hội cơ sở thấp nhất ở vùng cư trú truyền thống của các dân tộc thuộc ngữ hệ Tai-Kadai.
Về địa lý đó là vùng bắc phần bán đảo Đông Dương và lân cận. Ngày nay vùng này ở trong lãnh thổ của Thái Lan, Lào, bắc Việt Nam, bắc Campuchia, phía nam tỉnh Vân Nam và tây tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, Myanmar, và bang Assam ở đông bắc Ấn Độ.
Từ gốc
Thuật ngữ bản được sử dụng trong vùng cư trú của các dân tộc thuộc ngữ hệ Tai-Kadai với ngôn ngữ điển hình là tiếng Thái. Trong tiếng Thái หมู่บ้าน đọc là muban, nhưng thường nói gọn là ban, gồm hai thành phần là หมู่ là nhóm và บ้าน là nhà, từ đó mang ý mới là cấp độ thấp nhất của khu dân cư.
'Bản' tương đương với làng hay thôn của người Kinh, với buôn (plei) ở Tây Nguyên, sóc ở vùng người Khmer, và thường được dịch sang tiếng Anh là hamlet.
Cấp độ cao hơn của khu dân cư, gồm nhiều bản, là 'mường' (muang) và 'chiềng' (chiang, xiang, xieng), có thể tương đương với xã, tổng (liên xã) hoặc huyện ở vùng của người Kinh. Tại Lào hiện dùng từ muang cho đơn vị hành chính cấp huyện (district), nhưng ở Việt Nam và Thái Lan thì không còn sử dụng.
Qua biến động lịch sử lâu dài thì một bản
Ngày nay tại Thái Lan, Lào thì ban được đặt trước tên chính thức của bản, tạo ra địa chỉ. Ví dụ thị trấn Lak Sao trên Đường 8 bên Lào, lối cửa khẩu Cầu Treo, Hà Tĩnh sang, được ghi là 'Ban Lak Sao'.
Ở Việt Nam và Trung Quốc, trong vùng cư trú của người Thái, Tày, Nùng, Choang, thường thói quen trong khẩu ngữ là bỏ qua từ 'bản' nếu tên bản có hai từ trở lên, ví dụ (bản) Nậm Sin, (bản) Cốc Lầy,... Từ 'bản' không bỏ qua khi tên bản chỉ có một từ, ví dụ 'bản Phiệt', 'bản Cầm',... hoặc khi cần chỉ rõ cấp độ hành chính ví dụ '... tại bản Nậm Sin xã Bản Phiệt...'.
Ở Việt Nam điều này dẫn tới khi lập tên xã dựa trên tên của một bản trong xã, thì 'bản' trở thành thành tố tạo địa danh, ví dụ xã Bản Phiệt, xã Bản Cầm,...
Bản ở Việt Nam
Bản tương đương với làng hay thôn của người Kinh. Số dân trong bản không đồng đều, thường có từ vài chục đến vài ba trăm người với mấy chục nóc nhà và ở rải rác cách nhau vài kilomet. Các bản nhỏ không phát triển thì có thể được quy về 'xóm'.
Trước năm 1970 mật độ dân cư thấp, bản thường nhỏ, và có thể không có ranh giới rõ ràng, đặc biệt là những vùng chưa thực hiện định canh định cư. Từ khi quản lý đất đai đi vào nề nếp, dân số tăng, thì bản có ranh giới lãnh thổ được xác định rõ ràng. Ở đó có nơi cư trú, canh tác, bãi chăn thả súc vật, rừng, sông suối, nghĩa địa, v.v. Trong bản thường có một họ gốc, họ lớn.
Trước đây, người đứng đầu là trưởng bản, điều hành công việc theo tập quán và tinh thần cộng đồng.
Ngày nay đơn vị hành chính thấp nhất có tư cách pháp nhân là cấp xã. Tại các vùng này một xã gồm nhiều bản, hoặc một bản lớn, và việc phân chia khu dân cư dưới cấp xã dựa theo bản là chính, nếu quy mô bản phù hợp.
Về việc sử dụng từ 'bản' trong tiếng Việt
Sự phổ biến của từ 'bản' ở miền bắc Việt Nam đã dẫn đến 'bản' trở thành một từ phổ biến trong tiếng Việt, với ý nghĩa là đơn vị cư trú cơ sở của dân tộc thiểu số hoặc ở vùng hẻo lánh. Từ này được sử dụng mở rộng cho các vùng dân tộc phi Tai-Kadai ở phía bắc, như vùng người Hmông.
Một số trường hợp sử dụng mở rộng chưa được chuẩn hóa được ghi nhận là:
- Vùng Buôn Đôn ở Tây Nguyên được gọi là 'Bản Đôn'.
- Thuật ngữ 'già làng trưởng bản' chỉ những người có uy tín trong các buôn làng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Khi dịch văn bản tiếng nước ngoài, từ 'bản của người Nanai ở Siberia (nước Nga)...' cũng được sử dụng.
Bản ở Lào
Hệ thống phân cấp hành chính chủ yếu tại Lào chia ra thành 4 cấp:
- Trung ương
- Tỉnh (tiếng Lào: ແຂວງ - khwaeng hoặc khoueng) và tương đương: 17 tỉnh, 1 prefecture (tiếng Lào: ນະຄອນຫລວ - nakhon luang) Viêng Chăn.
- Muang (tiếng Lào: ເມືອງ; mường hay huyện): 140 muang.
- Ban.
'Ban' là một đơn vị dân cư cơ sở, có tư cách pháp nhân và con dấu hành chính. Trưởng bản là người được cử bầu và phải được chính quyền cấp trên công nhận.
Sự phát triển không đồng đều giữa các bản, sự khác biệt giữa vùng thấp như đồng bằng sông Mekong và vùng cao dẫn đến sự khác nhau về quy mô bản. Các bản ở vùng cao như muang Ta Oy, Dak Cheung,... ở Nam Lào chỉ có vài nhà với hai chục người, trong khi ở đồng bằng sông Mekong có đến hàng trăm hộ.
Sự phát triển kinh tế - văn hóa đã dẫn đến hình thành các khu vực đô thị hóa, các thị trấn,... Các khu vực này bao gồm cả đất đai của nhiều bản.
Bản ở Thái Lan
Ở Thái Lan, muban hoặc ban (tiếng Thái: หมู่บ้าน) là đơn vị dân cư cơ sở. Tuy nhiên, một khu dân cư lớn có thể bao gồm nhiều muban, cũng như một muban ở vùng thưa dân có thể bao gồm nhiều điểm dân cư.
- Làng
- Thôn
- Đô thị
- Phum
- Tra cứu mã bưu chính Việt Nam Lưu trữ 2012-04-29 tại Wayback Machine
Liên kết bên ngoài
- Bản mẫu tại Từ điển bách khoa Việt Nam