
| Sông Gianh | |
|---|---|
Sông Gianh, đoạn qua Tuyên Hóa, Quảng Bình | |
| Vị trí | |
| Quốc gia | Việt Nam |
| Đặc điểm địa lý | |
| Thượng nguồn | Cô Pi, huyện Minh Hóa |
| • cao độ | 2.017 m (6.617 ft) |
| Cửa sông | Biển Đông |
| Độ dài | 160 km (99 dặm) |
| Diện tích lưu vực | 4.680 km² (1.807 dặm²) |
| Lưu lượng | 252 m³/s (8.899 ft³/s) |
Dòng Gianh là một dòng sông chảy qua tỉnh Quảng Bình, có nguồn từ khu vực núi Cô Pi cao 2.017 m trong dãy Trường Sơn, và chảy qua các huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Trạch và thị xã Ba Đồn trước khi đổ vào biển Đông tại Cửa Gianh.
Đặc điểm
Từ nguồn, sông Gianh chảy hình chữ V với hướng chủ đạo tây nam-đông bắc. Khi đến giao điểm ba xã Thanh Thạch, Hương Hóa, Kim Hóa, sông chảy theo hướng tây bắc-đông nam. Tại ranh giới hai xã Kim Hóa và Lệ Hóa, sông tiếp nhận nước từ một chi lưu nhỏ ở phía hữu ngạn, chảy về từ phía tây. Gần thị xã Ba Đồn, sông Gianh nhận thêm nước từ chi lưu phía hữu ngạn, chảy từ khu vực Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng.
Sông Gianh có chiều dài khoảng 160 km, cắt qua Quốc lộ 1 ở vị trí Cửa Gianh cách 5 km về phía tây bắc. Diện tích lưu vực là 4.680 km², độ cao trung bình 360 m, độ dốc trung bình 19,2%, lượng nước năm trung bình là 7,95 km³, tương ứng với lưu lượng trung bình là 252 m³/s, mô đun dòng chảy là 53,8 l/s.km². Mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 11 chiếm khoảng 60-75% lưu lượng hàng năm. Lượng cát bùn năm trung bình là 1,93x10 tấn, với độ đục trung bình là 192 g/m³ và hệ số xâm thực là 168 tấn/km². Tàu thuyền có thể lưu thông từ Cửa Gianh đến Ba Đồn trong hạ lưu, và đến thị trấn Đồng Lê, huyện Tuyên Hóa, cách 47 km từ thị trấn Đồng Lê.
Đoạn thượng nguồn từ Khe Nét trở về phía nguồn dài khoảng 70–80 km, lòng sông có nhiều thác và ghềnh. Khoảng 20 km đầu nguồn, sông chảy qua vùng đá đổ ngổn ngang. Khi đến Đồng Tâm, sông mở rộng đạt khoảng 80 – 90 m, đôi lúc lên tới 110–115 m. Từ các xã Phù Hóa, Quảng Tiên đến thị xã Ba Đồn, sông Gianh có 5 hòn đảo nhỏ giữa dòng, trong đó hòn lớn nhất dài khoảng 3,8 km và rộng nhất là 0,8 km. Ngay phía dưới Ba Đồn, lòng sông mở rộng lên đến 1 km.
Sông Gianh trong lịch sử và văn hoá Việt Nam
Sông Gianh và Đèo Ngang là biểu tượng địa lý của tỉnh Quảng Bình. Phần đầu sông Gianh được gọi là Rào Nậy với những đặc điểm địa hình và địa chất đặc biệt của Rào Nậy - Hoành Sơn. Một nhánh khác là Rào Son nổi tiếng với Động Phong Nha (Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, di sản thiên nhiên thế giới). Cửa sông có cảng biển được gọi là Cảng Gianh.
Trong lịch sử, sông Gianh từng được gọi bằng chữ Hán là Linh Giang (𤅷江). Nếu Đèo Ngang là biên giới thời Đại Cồ Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành độc lập từ 939 đến 1069, thì sông Gianh là ranh giới trong cuộc chiến tranh Trịnh–Nguyễn giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786), với những xung đột vũ trang kéo dài gần nửa thế kỷ (1627-1672). Trận chiến chính diễn ra tại vùng Bố Chính (Quảng Bình). Đèo Ngang liên quan đến câu chuyện huyền thoại 'Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân' của Trạng Trình. Năm 1558, Nguyễn Hoàng, một danh tướng thời nhà Lê trung hưng và con trai thứ của Nguyễn Kim, đã đến Thuận Hóa để chiếm đóng, đánh dấu sự khởi đầu của triều Nguyễn sau này.
Trong cuộc chiến Trịnh Nguyễn, quân Trịnh kiểm soát đèo Ngang, nhưng thực tế biên giới phân chia miền Bắc - Nam của Việt Nam là sông Gianh từ năm 1627 đến 1774. Bờ bắc của sông có chợ Ba Đồn, nơi quân Trịnh thường xuyên mua sắm và trao đổi hàng hóa.
Vào tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi, người bị Pháp phế truất vì thiếu cộng tác và đã kêu gọi nhân dân khởi nghĩa, quân Cần vương lánh nạn ở vùng thượng nguồn sông, một khu vực hoang dã núi rừng rậm. Chính tại ngôi làng nhỏ Ò Vé, ông đã bị bắt vào ngày 2 tháng 11 năm 1888 và bị đày đến Algiers, nơi ông qua đời năm 1943.
