Gia phả là tài liệu ghi lại thông tin về tên tuổi, ngày tháng năm sinh, ngày giỗ, vai trò, công đức của cha mẹ, ông bà, tổ tiên và các phần mộ của một gia đình hoặc dòng họ.
Gia phả được xem như một cuốn sử ký của một gia đình hoặc dòng họ. Gia phả có thể được gọi là Phổ ký hoặc Phổ truyền. Đối với các nhà Tông thất (dòng dõi vua quan), gia phả của vương triều hay gia tộc thường được gọi bằng những từ ngữ trang trọng hơn như Ngọc phả hoặc Thế phả...
Tại các quốc gia Đông Á, chịu ảnh hưởng của Đạo Khổng, các thế hệ sau trong dòng họ hay vương triều phải giữ đạo Trung, đạo Hiếu. Việc biên soạn và gìn giữ gia phả được coi là cách ghi nhớ công lao tổ tiên, đồng thời củng cố niềm tự hào trong dòng tộc.
Ở phương Tây, có thói quen tạo cây phả hệ hoặc phả đồ, tương tự như Tông đồ của người Hoa hoặc người Việt.
Dù là một Tông đồ, Gia phả, Phả ký hay Phổ truyền, dù đơn giản hay chi tiết, tất cả đều trở thành tài liệu quý giá cho các nhà xã hội học và sử học. Chúng còn có giá trị trong các nghiên cứu về tâm lý, di truyền học, huyết học, và y học.
Ngành học nghiên cứu về gia phả được gọi là gia phả học.
Trung Quốc
Tại Trung Quốc, gia phả đã xuất hiện dưới dạng 'thế bản' từ thời nhà Chu (1122-256 TCN). Gia tộc Khổng Tử vẫn lưu giữ gia phả ghi chép từ năm 600 trước Công Nguyên cho đến ngày nay.
Việt Nam
Ở Việt Nam, gia phả đơn giản thường ghi tên cúng cơm, ngày giỗ và nơi an táng của tổ tiên. Theo các sử gia, gia phả có thể đã bắt đầu từ thời Sĩ Nhiếp làm Thái thú ở Giao Chỉ, hoặc gần hơn từ thời Lý Nam Đế (khoảng năm 503-548). Tuy nhiên, đến thời nhà Lý và nhà Trần, gia phả mới thực sự phát triển với các cuốn tộc phả, thế phả (ghi rõ thế thứ và tông tích toàn họ), và phả ký (ghi lại hành trạng và sự nghiệp của tổ tiên).
Ban đầu, gia phả chỉ xuất hiện trong Hoàng tộc và giới quan lại, với các tài liệu như Hoàng Triều Ngọc Điệp - năm 1026 của nhà Lý; Hoàng Tông Ngọc Điệp của nhà Trần, và Hoàng Lê Ngọc Phả của nhà Lê. Dần dần, gia phả của các danh gia, quan lại cũng được ghi chép và phổ biến rộng rãi trong dân chúng.
Trước đây, gia phả chủ yếu được ghi bằng chữ Hán và chữ Nôm. Tuy nhiên, qua nhiều năm chiến tranh, nhiều bộ gia phả của các dòng họ đã bị mất mát.
Tập quán làm gia phả phổ biến mạnh mẽ ở miền Bắc và Trung, trong khi miền Nam ít thấy gia đình thực hiện việc này (ở đó còn được gọi là 'gia phổ') và đã chuyển hóa thành 'tông chi' tức là 'tông chi tông đồ'.
Trong gia phả, người đứng đầu họ (trưởng họ, trưởng tộc) có trách nhiệm ghi chép đầy đủ thông tin về các thành viên trong dòng họ; các con cái sẽ sao chép từ bản gia phả chính. Gia đình thường giữ gìn cẩn thận và truyền lại qua các thế hệ. 'Họ' trong ý nghĩa gốc liên quan đến nhà cửa và trong chế độ phong kiến, kết nối con người với mảnh đất: một mái nhà, một gia đình, một dòng họ. Tên của mỗi người xác định vị trí của họ trong xã hội và đóng vai trò như một phần của tổng thể.
Cấu trúc
Một gia phả hoàn chỉnh phải được ghi chép rõ ràng, sử dụng ngôn ngữ chính xác, và bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- Thông tin chi tiết về người sao lục (biên soạn).
- Nguồn gốc của gia tộc, cho biết là phả ký hay gia sử.
- Ghi rõ Thủy Tổ của dòng họ.
- Ghi lại từng phả hệ từ Thủy Tổ đến các thế hệ con cháu sau này. Có phần phả đồ, tương tự như một cây, với từng gia đình là nhánh, giúp theo dõi dễ dàng. Đối với tiền nhân, ghi các mục sau:
- Tên: Bao gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên thường gọi. Thuộc đời thứ mấy? Con trai thứ mấy của ai?
- Ngày tháng năm sinh (mất), giờ (nếu có). Nơi mộ nguyên táng, cải táng, di táng? Thời gian nào?
- Học vấn, thi cử, thành tích, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi mất.
- Vợ: Chánh thất, kế thất, thứ thất... Họ tên, con thứ mấy của ai? Quê quán? Ngày, tháng, năm sinh, ngày, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, ghi đầy đủ như trên. Nếu có thi đậu hoặc có chức tước, ghi thêm thông tin.
- Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ, ghi rõ con của bà nào. Con gái ghi chú kỹ: con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi tên họ chồng, năm sinh, con ông bà nào, quê quán, thành tích, chức tước? Sinh con mấy trai, mấy gái, tên gì? (Con gái có ghi chú còn con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc đời sau).
- Con nuôi: Nếu con nuôi lập tự (nhận nuôi người trong họ, cùng huyết thống) vẫn phải ghi rõ và phần con cháu sau người con nuôi ghi như bình thường. Nếu là con nuôi hạ phóng thử (trẻ mồ côi, con thai hoang...) phải ghi rõ năm nhận nuôi. Nếu bố nuôi là tộc trưởng, người con nuôi không được kế thế tộc trưởng mà vai trò tộc trưởng thuộc con trai trưởng của chú em.
- Những gương sáng, tính cách đặc biệt, công đức đối với làng xã, họ hàng, xóm giềng... Những lời dạy bảo con cháu (di huấn), di chúc...
- Ngoài các mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại sự tích đặc biệt, giai thoại tiên tổ, câu đối, áng văn hay, bài thuốc gia truyền...
- Tiếp theo là tộc ước, quy định trong tộc họ để duy trì trật tự, có thưởng phạt, phải phù hợp với luật pháp chung.
- Với tộc họ lớn, có nhiều tông nhánh, chi phái. Phần này ghi thông tin chi phái, ai là tổ chi, chi hiện ở đâu, nhà thờ chi...
- Thông tin khác về tài sản hương hỏa, bản đồ khu mộ, câu đối, sắc phong nếu có...
- Nghiên cứu gia phả
Liên kết bên ngoài
Gia đình | |||
---|---|---|---|
| |||
Thân nhân bậc một |
| ||
Thân nhân bậc hai |
| ||
Thân nhân bậc ba |
| ||
Hôn nhân |
| ||
Gia đình có con riêng |
| ||
Thuật ngữ |
| ||
Phả hệ và dòng dõi |
| ||
Các mối quan hệ |
| ||
Ngày lễ |
| ||
Liên quan |
|