Sông là dòng nước chảy thường xuyên tương đối ổn định trên bề mặt lục địa, các dòng sông hầu hết đều đổ ra biển; nơi tiếp giáp với biển được gọi là cửa sông. Trong một vài trường hợp, sông chảy ngầm xuống đất hoặc khô cạn hoàn toàn trước khi chúng chảy đến một cửa sông hoặc khu vực nước khác. Các con sông nhỏ cũng có thể được gọi bằng nhiều tên khác nhau như suối, sông nhánh hay rạch. Không có một tiêu chuẩn nào để gọi tên cho các yếu tố địa lý như sông, suối, mặc dù ở một số quốc gia, cộng đồng thì người ta gọi dòng chảy là sông, rạch tùy thuộc vào kích thước của nó.
Các con sông là một thành phần quan trọng trong vòng tuần hoàn nước, nó là các bồn thu nước từ nước mưa chảy tràn, tuyết hoặc nước ngầm và vận chuyển các loại nước này ra biển.
Phân nhóm
Thường thì, sông được phân thành hai loại chính là sông chính và sông phụ (hoặc nhánh sông). Sông chính là sông có độ dài lớn nhất hoặc có diện tích lưu vực hay lượng nước lớn nhất; sông phụ là sông chảy vào sông chính.
Phân nhóm theo cấp độ sông
Với mức độ chi tiết cao hơn, người ta còn phân loại sông theo hệ thống Horton–Strahler: các sông ở nguồn được gọi là cấp độ 1. Hai sông cấp 1 khi nhập vào nhau tạo thành sông cấp 2. Sông cấp 1 khi hợp với sông cấp 2 sẽ chỉ tạo thành sông cấp 2; nhưng hai sông cùng cấp khi nhập lại với nhau tạo thành sông cấp ba. Điều này có nghĩa là, hai sông chỉ khi cùng cấp mới có thể hợp lại thành sông cấp cao hơn một đơn vị. Quá trình này tiếp tục cho đến khi đạt đến cửa sông.
Theo địa hình
Các dòng sông thường có thể được phân thành hai loại chính là sông chảy trên vùng phù sa và sông chảy trên vùng đá gốc hoặc vùng hỗn hợp. Sông chảy trên vùng phù sa thường có lòng dẫn và đồng bãi phát triển tự nhiên, trong khi sông chảy trên vùng đá gốc hình thành khi dòng sông xâm thực sâu đến lớp trầm tích hiện đại và cắt qua lớp đá gốc dưới đất. Quá trình này xảy ra ở những vùng đã trải qua biến động địa chất như nâng cao (làm tăng độ dốc của sông) hoặc ở những khu vực có thành phần đá cứng khiến cho dòng sông có dốc đến nỗi không thể tích tụ phần trầm tích hiện đại. Sông chảy trên đá gốc thường ít có trầm tích dưới lòng sông; những vật liệu này dễ bị xâm thực trong lòng sông.
Các sông phù sa có thể được phân loại theo các hình thái kênh như uốn khúc, bện tết, zigzag, vòng cung, hoặc thẳng. Hình thái của một dòng sông phù sa bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như nguồn cung cấp trầm tích, thành phần vật liệu, lưu lượng nước, thực vật trong lưu vực sông và nâng cao đáy sông.
Trong thế kỷ 20, William Morris Davis đưa ra một phương pháp chu kỳ xâm thực để phân loại các con sông dựa trên 'tuổi' của chúng. Mặc dù hệ thống phân loại của Davis vẫn còn được sử dụng trong một số tài liệu hiện nay, nhưng sau những năm 1950 và 1960, nó đã bị các nhà địa lý học chỉ trích và không được chấp nhận vì phương pháp phân loại không dựa trên một giả thiết có thể được kiểm chứng, do đó không có tính khoa học. Các ví dụ về phân loại sông của Davis:
- Sông non: là một dòng sông có độ dốc lớn, ít nhánh sông và dòng chảy nhanh. Các lòng dẫn của nó thường phát triển sâu hơn so với lòng dẫn ngang. Ví dụ như sông Brazos, Trinity và Ebro.
- Sông trưởng thành: là một dòng sông có độ dốc nhỏ hơn so với sông non và có dòng chảy chậm hơn. Sông trưởng thành có nhiều nhánh sông đổ vào và có lưu lượng nước lớn hơn sông non. Lòng sông xâm thực ngang lớn hơn so với xâm thực sâu như sông Mississippi, Saint Lawrence, Danube, Ohio, Thames và Paraná.
- Sông già: là một dòng sông có độ dốc thấp và có lượng xâm thực ít. Các sông già thường có những bãi bồi tụ như sông Hoàng Hà, sông Hằng, sông Tigris, sông Euphrates, sông Ấn và sông Nile.
- Sông non mới: là dòng sông có độ dốc gia tăng do sự nâng cao của các mảng kiến tạo.
Địa hình
Một dòng sông bắt đầu từ một nguồn (hoặc thường là nhiều nguồn), đi theo một đường gọi là dòng chảy, và kết thúc tại một hay nhiều cửa sông. Nước trong sông thường bị giới hạn trong một kênh, được tạo thành từ một lòng suối giữa hai bờ. Ở những dòng sông lớn hơn, thường có một vùng lũ rộng hơn được hình thành bởi lũ lụt - nước tràn qua kênh. Lũ lụt có thể rộng liên quan đến kích thước của kênh sông. Sự khác biệt giữa kênh sông và vùng ngập lũ có thể bị mờ nhạt, đặc biệt là ở các khu vực đô thị nơi mà vùng ngập lũ của một dòng sông có thể phát triển rất nhiều do sự can thiệp của con người với việc xây dựng các công trình và nhà ở. Các dòng sông có thể chảy xuống núi, qua các thung lũng (vùng trũng) hoặc dọc theo đồng bằng và có thể tạo ra hẻm núi.
Thuật ngữ thượng dòng (hoặc thượng nguồn) dùng để chỉ về phía nguồn của dòng sông, tức là ngược với hướng dòng chảy. Tương tự, hạ dòng (hoặc hạ lưu) mô tả hướng về phía cửa sông, nơi mà dòng chảy ra ngoài. Thuật ngữ tả ngạn chỉ bờ bên trái theo hướng dòng chảy, hữu ngạn chỉ bờ bên phải.
Kênh sông thường chứa một dòng nước, nhưng một số dòng sông có thể chảy như một mạng lưới các dòng nước kết nối với nhau, tạo thành một hệ thống sông bện. Các dòng sông bện rộng rãi hiện nay chỉ được tìm thấy ở một số khu vực trên toàn thế giới, như Đảo Nam của New Zealand. Chúng cũng phổ biến trên các đồng cỏ và một số vùng đồng bằng sông lớn hơn. Sông Anastomose tương tự như sông bện và hiếm gặp. Chúng có nhiều kênh hình sin với lượng trầm tích lớn. Có rất ít trường hợp phân nhánh sông mà dòng sông phân chia và chảy ra ở các vùng biển khác nhau. Một ví dụ là sự phân chia của sông Nerodime ở Kosovo.
Một dòng sông khi chảy trong kênh của nó là nguồn năng lượng để thay đổi hình dạng và cấu trúc của nó. Vào năm 1757, nhà thủy văn học người Đức Albert Brahms đã quan sát rằng trọng lượng chìm của các vật thể có thể bị dòng sông mang đi tỷ lệ thuận với sức mạnh thứ sáu của tốc độ dòng chảy. Công thức này còn được gọi là luật Airy. Do đó, nếu tốc độ dòng chảy tăng gấp đôi, dòng chảy sẽ đánh bật các vật thể có trọng lượng gấp 64 lần. Trên các vùng lũ núi, đây có thể được coi là các kênh xói mòn xuyên qua tảng đá cứng và tạo ra cát và sỏi từ sự phá hủy của các tảng đá lớn hơn. Một thung lũng sông có thể được tạo thành từ một hình chữ U phủ băng thung lũng, thường có thể được nhận biết dễ dàng bởi kênh hình chữ V mà nó đã đào xới. Trong các vùng đất phẳng hơn, uốn khúc có thể hình thành thông qua xói mòn của các bờ sông và sự lắng đọng ở bên trong các khúc cua. Đôi khi, dòng sông sẽ cắt đứt một vòng, rút ngắn kênh và tạo thành hồ oxbow hoặc billabong. Các dòng sông mang một lượng lớn trầm tích có thể tạo ra vùng đồng bằng rõ rệt ở miệng của chúng. Các con sông có miệng ở vùng nước triều mặn có thể hình thành cửa sông.
Trong suốt con sông, tổng lượng nước được vận chuyển xuống hạ lưu thường là sự kết hợp của dòng nước tự do cùng với một lượng lớn chất lượng chảy qua đá và sỏi dưới lòng sông và vùng hyporheic (vùng ngập lụt). Đối với nhiều dòng sông trong các thung lũng lớn, thành phần này của dòng chảy vô hình có thể vượt quá sự hiện diện của dòng chảy nhìn thấy được.
Luồng dưới bề mặt
Hầu hết nhưng không phải tất cả các dòng sông chảy trên bề mặt. Các dòng sông ngầm chảy trong hang động hoặc hang động. Những dòng sông như vậy thường được tìm thấy trong các khu vực có địa chất đá vôi. Các dòng subglacial là những dòng sông bện chảy dưới đáy sông băng và các tảng băng, cho phép nước tan chảy ra phía trước của sông băng. Với độ dốc áp suất lớn từ trọng lượng lớn của sông băng, những dòng như vậy thậm chí có thể chảy lên dốc.
Tính lâu dài của dòng chảy
Một dòng sông không liên tục (hay dòng sông tạm thời) đôi khi chỉ chảy và có thể cạn khô trong vài năm. Những con sông này thường xuất hiện ở các vùng có lượng mưa hạn chế hoặc biến đổi cao, hoặc có thể là do đặc tính địa chất như lòng sông rất dễ thấm. Một số dòng sông tạm thời chảy trong mùa hè nhưng không phải vào mùa đông. Những dòng sông như vậy thường dựa vào các nguồn nước ngầm hồi phục từ lượng mưa mùa đông. Ở Anh, những con sông này được gọi là bournes và có tên gọi như Bournemouth và Eastbourne. Ngay cả ở những vùng ẩm ướt, vị trí nơi dòng chảy bắt đầu trong các dòng sông nhỏ thường di chuyển ngược dòng để đáp ứng với lượng mưa và lưu vực khi không có nước hoặc khi cây bụi mùa hè hoạt động chuyển hướng nước để thoát hơi nước. Các dòng sông khô thường xuất hiện ở khu vực khô cằn và thường được gọi là arroyos hoặc tên khu vực khác. Nước mưa lớn có thể tạo ra lũ lụt, bùn đất, cát hoặc đất, tạo thành các dòng sông tạm thời.
Danh sách các dòng sông
10 dòng sông dài nhất trên thế giới
Việc đo chiều dài của một con sông là rất khó, đặc biệt là với những con sông càng dài càng khó đo chính xác hơn. Ngoài ra, việc xác định nguồn và cửa sông cũng là một vấn đề phức tạp, bởi vì phần đầu của nhiều sông chỉ là dòng suối nhỏ, hồ tạm thời hoặc đầm lầy.
Đây là một số con số trung bình:
- Nil (6.650 km)
- Amazon (6.400 km)
- Dương Tử (Trường Giang; 6.300 km)
- Mississippi–Missouri (6.275 km)
- Obi–Irtysh (5.570 km)
- Enisei–Angara (5.550 km)
- Hoàng Hà (5.464 km)
- Hắc Long Giang (4.410 km)
- Congo (4.380 km hay 4.670 km)
- Lena (4.260 km)
Các dòng sông nổi tiếng
- Sông Amazon, dòng sông lớn nhất thế giới với lưu vực rộng nhất
- Sông America, một nhánh của sông Sutter's Mill
- Sông Amu Darya
- Sông Amur (Hắc Long Giang), dòng chính của Đông Siberia và biên giới tự nhiên giữa Nga và Trung Quốc
- Sông Arkansas, dòng chính của sông Mississippi
- Sông Arno, chảy qua Firenze, Ý
- Sông Arvandrud (Shatt al-Arab), biên giới giữa Iran và Iraq
- Sông Brahmaputra, dòng chính ở Đông Bắc Ấn Độ và Tây Nam Trung Quốc
- Sông Chao Phraya, dòng chính của Thái Lan
- Sông Clyde, chảy qua Glasgow (Scotland)
- Sông Colorado (ở Argentina)
- Sông Colorado (ở Hoa Kỳ), dòng chính của miền Tây Hoa Kỳ
- Sông Columbia, dòng chính ở Thái Bình Dương Bắc
- Sông Congo, dòng chính của Trung Phi
- Sông Danube, chảy qua vùng trung tâm châu Âu
- Sông Río de la Plata, sông rộng nhất thế giới
- Sông Ebro, Tây Ban Nha
- Sông Elbe, dòng chính của Đức, Hamburg nằm bên bờ sông
- Sông Euphrates, một trong hai nhánh của sông Mesopotamia (Iraq), cùng với sông Tigris
- Sông Hằng, dòng chính của Ấn Độ, chảy qua Bangladesh
- Sông Hán, chảy qua Seoul, Hàn Quốc
- Sông Helmand, dòng chính của Afghanistan
- Sông Hoàng Hà, một trong những dòng chính của Trung Quốc
- Sông Hudson, dòng chính của New York
- Sông Indus, dòng chính của Pakistan
- Sông Jordan, dòng chính của Israel
- Sông Karun, Iran
- Sông Kaveri, Ấn Độ
- Sông Lena, dòng chính của vùng Siberia, Nga
- Sông Mackenzie, dòng sông dài nhất của Canada
- Sông Magdalena, Colombia
- Sông Main, Đức
- Sông Mê Kông (Cửu Long), dòng sông dài nhất Đông Nam Á
- Sông Mersey, chảy qua Liverpool
- Sông Maas, sông ở Hà Lan và Bỉ, khu vực cửa sông có cảng Rotterdam
- Sông Mississippi, dòng chính của Hoa Kỳ
- Sông Missouri, dòng chính của Hoa Kỳ
- Sông Murray, (Murray-Darling), Úc
- Sông Niger, châu Phi
- Sông Nin, dòng sông dài nhất thế giới, cung cấp phù sa cho Ai Cập
- Sông Obi, Siberia, Nga
- Sông Oder, châu Âu
- Sông Ohio, Hoa Kỳ
- Sông Orinoco, Venezuela
- Sông Parana, dòng chính của Nam Mỹ
- Sông Paraguay, dòng chính ở Brasil, Bolivia, Paraguay và Argentina
- Sông Po, chảy qua khu vực công nghiệp miền Bắc Italia
- Sông Potomac, chảy qua Washington, D.C. và là ranh giới giữa 2 bang Maryland và Virginia, Hoa Kỳ
- Sông Rhine, châu Âu, chịu ảnh hưởng nặng từ ô nhiễm do công nghiệp Tây Đức
- Sông Rhone, Pháp
- Sông Rio Grande, biên giới giữa Mỹ và Mexico
- Sông Saint Lawrence, vùng Hồ Lớn
- Sông Seine, chảy qua Paris
- Sông Segura, Tây Ban Nha
- Sông Severn, dòng sông dài nhất nước Anh
- Sông Shinano-gawa, dòng sông dài nhất của Nhật Bản
- Sông Snake
- Sông Tajo, sông lớn nhất bán đảo Iberia
- Sông Tay, Scotland
- Sông Thames, chảy qua London
- Sông Tiber, Roma
- Sông Tigris, dòng chính ở vùng Lưỡng Hà - một trong những nơi gốc của văn minh nhân loại
- Sông Tonegawa, Nhật Bản
- Sông Vistula, Ba Lan
- Sông Vltava, Prague (Cộng hòa Séc)
- Sông Volga, Nga - dòng sông dài nhất châu Âu
- Sông Trường Giang, dòng sông dài nhất Trung Quốc
- Sông Yenisei, Siberia, Nga
- Sông Yukon, Alaska và lãnh thổ Yukon
- Sông Zambezi, châu Phi
Hình ảnh
Đọc thêm
- Cuộc sống về sông người Mỹ kể bởi Riverlorian, Jerry Hay. Truy cập indianawaterways.com để biết thêm thông tin
- Jeffrey W. Jacobs. “Các sông, Thế giới lớn”. Bách khoa toàn thư nước.
- Luna B. Leopold (1994). Một cái nhìn về dòng sông. Nhà xuất bản Đại học Harvard. ISBN 0674937325. OCLC 28889034. ISBN. — một cuốn sách cơ bản không chuyên về địa hình học và thủy lực của nước.