Sông Thu Bồn | |
Sông | |
Thắng cảnh Hòn Kẽm Đá Dừng ở thượng nguồn sông Thu Bồn
| |
Quốc gia | Việt Nam |
---|---|
Tỉnh | Quảng Nam |
Các phụ lưu | |
- tả ngạn | sông Vu Gia |
Nguồn | |
- Vị trí | Khối núi Ngọc Linh, huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum, Việt Nam |
- Cao độ | 2.598 m (8.524 ft) |
Cửa sông | Cửa Đại (giữa Tp Hội An và huyện Duy Xuyên) |
- vị trí | biển Đông |
- cao độ | 0 m (0 ft) |
- tọa độ
|
|
Chiều dài | 198 km (123 mi) |
Lưu vực | 10.350 km (3.996 dặm vuông Anh) |
Dòng sông Thu Bồn, với diện tích lưu vực rộng 10.350 km², là một trong những dòng sông nội địa có lưu vực lớn nhất Việt Nam. Sông bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Linh thuộc huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum và đổ ra biển tại cửa Đại, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; một nhánh chảy vào sông Vĩnh Điện để đổ nước vào sông Hàn, Đà Nẵng. Trước khi đổ ra biển tại cửa Đại, một phần nước của sông chảy vào sông Trường Giang để đổ ra vịnh An Hòa, Tam Quang, Núi Thành. Dòng sông Thu Bồn cùng với dòng sông Vu Gia, hợp lưu tại Đại Lộc, tạo thành hệ thống dòng sông lớn có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và tâm hồn người Quảng. Phần lớn diện tích lưu vực sông chảy trong địa phận Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, phần thượng nguồn một phần nằm trên đất Kon Tum và Quảng Ngãi.
Lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn có ranh giới với các lưu vực:
- Phía bắc giáp lưu vực sông Cu Đê.
- Phía nam giáp lưu vực sông Sê San, sông Trà Bồng.
- Phía đông giáp biển Đông và lưu vực sông Tam Kỳ.
- Phía tây giáp với Lào.
Dòng nước chảy
Sông bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Linh (Nam Quảng Nam-Bắc Kon Tum); phần đầu của sông được gọi là Đak Di. Sông chảy ngược về phía Bắc qua các huyện trung du của tỉnh Quảng Nam như Nam Trà My, Bắc Trà My, Tiên Phước, Hiệp Đức. Khi đi qua đây, sông nhận thêm nhiều chi lưu là các con sông, suối nhỏ. Đoạn chảy qua Tiên Phước và Hiệp Đức được gọi là sông Tranh. Kể từ khi đi qua Nông Sơn, Duy Xuyên, sông mới được gọi là Thu Bồn. Tại Nông Sơn, sông thay đổi hướng sang Tây Nam-Đông Bắc. Khi chảy qua biên giới giữa Duy Xuyên và Đại Lộc, Thu Bồn hợp nhất với chi lưu lớn nhất là sông Vu Gia. Sông đổ ra Biển Đông tại cửa Đại. Không xa cửa Đại, ngoài khơi là cù lao Chàm. Trước khi ra biển, sông tạo ra các nhánh sông nhỏ như sông Ba Chươm, sông Cổ Cò, sông Đình, sông Đò, sông Hội An.
Các lưu vực chính của sông
Sông Thu Bồn
Sông Thu Bồn là con sông chính trong hệ thống sông cùng tên. Phần đầu của sông được biết đến với tên gọi khác là sông Tranh. Sông bắt nguồn từ núi Ngọc Linh, cao 2,598m, thuộc huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. Sông chảy theo hướng Nam-Bắc qua các huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Tiên Phước, Hiệp Đức, Nông Sơn, Quế Sơn. Khi đến Giao Thủy, sông chảy vào vùng đồng bằng của các huyện Duy Xuyên, Điện Bàn và Thành phố Hội An. Chiều dài của sông chính đến Cửa Đại là 198 km, với tổng diện tích lưu vực đến Giao Thủy (nơi hợp lưu với sông Vũ Gia) là 3,825 km². Sông Thu Bồn có nhiều phụ lưu cấp II như Sông Khang, Sông Vang, Sông Tranh, Sông Gềnh Gềnh. Tại Giao Thủy, sông nhận nước từ phụ lưu Vu Gia tạo thành một hệ thống phân lưu phức tạp ở vùng hạ lưu sông. Tại thị trấn Vĩnh Điện, một phần nước của sông Thu Bồn đổ vào sông Vĩnh Điện, sau đó chảy vào sông Hàn và đổ ra cửa Đà Nẵng.
Sông Vu Gia
Là một trong hai sông hợp thành hệ thống sông Thu Bồn, nên cũng được gọi là hệ thống sông Thu Bồn-Vu Gia. Lưu vực sông Vu Gia nằm ở phía bắc lưu vực sông Thu Bồn, thuộc các huyện Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Đại Lộc và thành phố Đà Nẵng. Sông Vu Gia có nhiều phụ lưu cấp II quan trọng như Sông Bung, Sông Kôn, Sông Cái. Chiều dài của dòng chính tính từ thượng nguồn sông Cái đến cửa Hàn (Đà Nẵng) là 204 km. Tổng diện tích lưu vực đến thị trấn Ái Nghĩa (huyện Đại Lộc) đạt 5,180 km². Phần thượng nguồn sông Vu Gia một phần nằm trên đất Kon Tum, thuộc huyện Đăk Glei, với tổng diện tích lưu vực đạt 500 km². Tại Ái Nghĩa, sông có một chi lưu nhỏ là sông Quảng Huế đổ nước vào sông Thu Bồn. Sau đó, sông chia thành hai nhánh là Sông Yên và Sông Chu Bái. Sông Yên chảy về phía An Trạch, sau đó nhập lưu với sông Túy Loan chảy vào sông Hàn, Đà Nẵng.
Tài nguyên lưu vực sông
Tài nguyên thủy điện
Do đặc điểm địa lý và thủy văn, hệ thống sông ở miền Trung - Tây Nguyên có lượng mưa hàng năm rất lớn (từ 2.000 mm/năm trở lên), tạo nên tiềm năng thủy điện lớn, đặc biệt là hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn thuộc Quảng Nam. Theo tính toán của Công ty Tư vấn xây dựng điện 1, trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn có tới 10 dự án thủy điện với tổng công suất lắp máy 1.279 MW, gấp 1,76 lần so với Nhà máy Thủy điện Yaly (Gia Lai - Kon Tum), sản lượng điện trung bình hàng năm là 4.751,3 tỷ kWh. Trong đó, nhiều dự án thủy điện như A Vương 1, Sông Tranh 2, Đak Mi 4, Sông Bung 4, Sông Côn 2 và Đak Mi 1 có tiềm năng kinh tế kỹ thuật tốt có thể sớm triển khai.
- Thủy điện A Vương, mực nước dâng bình thường (MNDBT) 380m, công suất lắp máy (NLM) 210 MW;
- Thủy điện Sông Bung 2, MNDBT 570m, NLM = 100 MW;
- Thủy điện Sông Bung 4, MNDBT 5230m, nhà máy thủy điện trên nhánh sông Giằng NLM = 220 MW;
- Thủy điện Sông Giằng, MNDBT 60m, NLM = 60 MW;
- Thủy điện Đăk Mi 1, MNDBT 820m, NLM = 255 MW;
- Thủy điện Đăk Mi 3, MNDBT 359m, NLM = 63MW;
- Thủy điện Đăk Mi 4, MNDBT 260, nhà máy thủy điện trên nhánh sông Thu Bồn, NLM = 210 MW;
- Thủy điện Sông Kôn 2, MNDBT 312,5m, NLM = 60 MW;
- Thủy điện Sông Tranh 2, MNDBT 170m, NLM = 135MW;
Các dự án thủy điện trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn đóng vai trò quan trọng trong sản xuất điện cho hệ thống điện quốc gia, cung cấp nước cho mùa khô và giảm lũ trong mùa mưa.
Việc xây dựng các dự án thủy điện đồng thời cũng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, lưu vực Thu Bồn - Vu Gia là nơi sinh sống của nhiều loài động vật đặc hữu, tồn tại trong các khu rừng mưa nhiệt đới cuối cùng ít bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Những loài động vật này bao gồm sao la, loài động vật nguy cấp tương tự như hươu nai, được phát hiện từ năm 1992 bởi các nhà khoa học từ Bộ Lâm Nghiệp Việt Nam và WWF.
Tài nguyên khoáng sản
Lưu vực sông Thu Bồn ở phần đầu là nơi được cho là có nhiều vàng sa khoáng. Việc khai thác vàng thủ công, cát và sỏi đã gây ô nhiễm nước sông và xói mòn đất.[1] Lưu trữ 2007-10-28 tại Wayback Machine Trên thượng nguồn sông Thu Bồn có hai công trình thủy điện đang hoạt động, đó là Sông Tranh 1 và Sông Tranh 2.
Tài nguyên sinh vật
Vùng cửa sông Thu Bồn là một khu vực ngập nước, có nhiều cồn, bao gồm hai hệ sinh thái là rừng nhiệt đới và đầm lầy. Với sự quan trọng về đa dạng sinh học và văn hóa, vùng hạ lưu sông Thu Bồn bao gồm quần thể khu đô thị cổ Hội An, Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm và vùng hạ lưu sông Thu Bồn hiện đã được UNESCO Việt Nam và tỉnh Quảng Nam đệ trình hồ sơ khoa học xin công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Theo các nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước, vùng hạ lưu sông Thu Bồn có môi trường và khí hậu thuận lợi cho các loài sinh vật sống ở môi trường nước ngọt, nước mặn và cả trên cạn phát triển và sinh sôi nảy nở.
Bên bờ sông Thu Bồn là nơi có nhiều di tích lịch sử của vương quốc Chăm Pa cổ xưa, như thánh địa Mỹ Sơn (Duy Xuyên), Trà Kiệu (kinh đô cổ của Chăm Pa), cảng thị cổ Hội An (tại tả ngạn sông Thu Bồn, cách cửa Đại 4 km).
Các vấn đề môi trường
Xói mòn bờ sông là vấn đề môi trường nghiêm trọng ở các khu vực thuộc lưu vực sông
Lũ lụt
Trong những năm gần đây, các trận lụt xảy ra thường xuyên và mạnh mẽ trên hệ thống sông Thu Bồn, gây thiệt hại nặng nề đối với người dân và tài sản tại Quảng Nam. Các trận lụt năm 1964, 1978, 1983, 1993, 1998, 1999, 2004, 2006 đã thay đổi dòng chảy của sông và gây xói lở nghiêm trọng bờ sông. Nhà nước cần đầu tư để ngăn chặn tình trạng này bằng cách sơ tán dân cư lên vùng cao, đảm bảo an toàn cho các công trình kiến trúc tại Hội An.
- Tập bản đồ hành chính 64 tỉnh, thành phố, Nhà xuất bản Bản đồ, Hà Nội, 2004.
Liên kết bên ngoài
Hệ thống sông Vu Gia-Thu Bồn | |
---|---|
Sông |
|
Đăk | |