Máy bay K-7 là một ngôi nhà kiêm pháo đài 'biết bay' thực sự bởi nó có một trung tâm liên lạc với mặt đất, một phòng vệ sinh, một nhà bếp, 8 khẩu pháo 20 mm và 8 súng máy 7,62 mm, chở được xe tăng, đồng thời mang được tới 19 tấn bom.
Không thể phủ nhận rằng thời đại Liên Xô đã sinh ra nhiều nhà phát minh, kỹ sư và nhà thiết kế tài năng có khả năng giải quyết các vấn đề phi thực tế. Konstantin Kalinin là một trong số đó. Thời thơ ấu, khi quan sát những chiếc máy bay đầu tiên bay lượn trên bầu trời, Kalinin đã nuôi quyết định sẽ dành hết tâm huyết để tạo ra những chú chim sắt thần kỳ như thế.

Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Kalinin đã trở thành trưởng phòng thiết kế - nơi quy tụ những kỹ sư, nhà thiết kế tài năng. Năm 1925, các nhà phát triển nảy ra ý tưởng xây dựng một con quái vật biết bay thực sự. Và chỉ sau 4 năm làm việc chăm chỉ, dự án đã sẵn sàng trên giấy tờ. Bấy giờ, việc của Kalinin là phải biến các bản vẽ này thành sản phẩm bằng kim loại và nâng được cỗ máy tuyệt vời đó lên không trung.

Về mặt cấu trúc, máy bay được thiết kế theo kiểu 'cánh bay' (tiếng Nga: Летающее крыло / tiếng Anh: Flying wing). Vào thời điểm đó, hệ thống này chưa hề được nghiên cứu một cách rộng rãi. Tuy nhiên, các nhà thiết kế đã chấp nhận mạo hiểm khi nhận ra lợi ích của việc thiết kế máy bay không có thân. Khối lượng riêng của máy bay khi đó sẽ ít hơn nhiều, do đó tải trọng có ích của nó sẽ tăng lên, tức là máy bay có thể chở được nhiều hàng hóa hơn. Tuy nhiên, điều này đã phải trả giá bằng việc phân bổ trọng lượng kém khiến máy bay không ổn định.

Để giúp phi công xoay sở được với tải trọng cực lớn trên tay lái của chiếc máy bay nặng 40 tấn, Kalinin đã phát minh ra hệ thống lái trợ lực điện mà thời đó chưa từng có.
Nguyên mẫu đầu tiên được chế tạo vào năm 1933. Đó là một 'cánh bay' có sải cánh dài 53 m, trang bị 7 động cơ, chở được 128 hành khách trên khoang và tầm bay 5 nghìn km. Đây là một ngôi nhà biết bay thực sự bởi nó có một trung tâm liên lạc với mặt đất, một phòng vệ sinh, và thậm chí cả một nhà bếp.

Máy bay được thiết kế theo nguyên tắc 'all-in-wing', giúp thợ máy có thể tiếp cận động cơ để sửa chữa trực tiếp khi máy bay đang bay.
Có khả năng sử dụng máy bay như một 'pháo đài bay' và máy bay ném bom, đã tính đến. Trong phiên bản này, nó trang bị vũ khí phòng thủ bao gồm 8 khẩu pháo 20 mm và 8 súng máy 7,62 mm, đồng thời mang được tới 19 tấn bom. Số lượng này là rất lớn vào thời điểm đó, cách đây cả thế kỷ!

Trong phiên bản phục vụ đổ bộ từ không, máy bay được thiết kế để vận chuyển 112 lính dù, chở một chiếc xe tăng nặng 8,4 tấn hoặc các thiết bị khác được đặt giữa khung gầm để thả xuống bằng dù.

Lúc đó, máy bay này là lớn nhất ở Liên Xô và quá khổ đến nỗi báo chí gọi nó là 'Air Gosprom'. Gosprom là một trong những tòa nhà cao nhất của Liên Xô, với chiều cao 108 m, được xây dựng từ năm 1925-1928 trên quảng trường lớn nhất ở Kharkov - Quảng trường Dzerzhinsky (từ năm 1996 đổi tên thành Quảng trường Tự do).

Các cuộc thử nghiệm bay đầu tiên của máy bay K-7 rất ấn tượng. Tất cả đều có sự tham gia trực tiếp của K. Kalinin và ông luôn chọn ngồi ở vị trí phi công phụ.
Sau 2 tháng, nhóm thử nghiệm quyết định kiểm tra xem máy bay hoạt động như thế nào ở tốc độ tối đa.

Chiếc K-7, như nhiều máy bay khác vào thời điểm đó, gặp phải vấn đề rung. Lý thuyết đối phó vẫn chưa được phát triển đầy đủ, vì vậy phi công thử nghiệm Snegirev đã sử dụng trực giác để chống lại các dao động và thay đổi cách hoạt động của bảy động cơ. Tuy nhiên, sức người có giới hạn và điều này không thể cứu vãn máy bay. Chiếc máy bay nguyên mẫu đầu tiên rơi trong cuộc thử nghiệm ở tốc độ tối đa vào ngày 21 tháng 11 năm 1933, khiến 15 trong số 20 người trên khoang thiệt mạng.

Dù gặp một thất bại đơn lẻ, những nhà sản xuất máy bay không bị dừng lại. Họ tiếp tục nỗ lực để tạo ra hai mẫu khác. Tuy nhiên, vào năm 1935, dự án bị tạm dừng và sau đó hoàn toàn ngừng hoạt động.
Hai mẫu sửa đổi vẫn chưa được hoàn thiện, vì vậy hiện tại, thông tin về thiết kế và hình dạng của K-7 chỉ có thể được suy luận từ các tài liệu kỹ thuật còn tồn tại, những bức ảnh và ký ức của những người tham gia cùng như các nhân chứng của các cuộc thử nghiệm.
Người chủ tịch dự án đã bị áp đặt và qua đời vào năm 1938. Tuy nhiên, tinh thần của ông vẫn sống mãi qua các mô hình máy bay lớn, trong phim và trò chơi máy tính.