>> Phân tích tác phẩm Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đạt điểm 10
1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
2 Bài văn mẫu Nêu cảm nhận về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn
Đánh giá về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn, mẫu số 1:
Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà nho uyên thâm nổi tiếng trong giai đoạn tranh đấu Trịnh - Nguyễn, đã lựa chọn cuộc sống ẩn dật theo đạo Nho trong bối cảnh loạn lạc. Bài thơ Nhàn, viết bằng chữ Nôm và trích từ Bạch Vân quốc ngữ thi tập của ông, thể hiện cuộc sống giản dị, đẹp đẽ nhưng thanh cao, trong sạch. Hai câu thơ mở đầu:
'Một mai một quốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào'
Với cách đếm số 'một' sáng tạo, nhịp thơ đều đặn 2/2/3 kết hợp với hình ảnh dụng cụ lao động thôn quê như mai, cuộc, cần câu, tác giả tạo nên bức tranh về cuộc sống chân thật tại làng quê. Những công cụ mộc mạc ấy là biểu tượng cho cuộc sống giản dị, bình yên của danh sĩ ẩn cư giữa ruộng vườn, hưởng thụ niềm vui ẩn sau làn cảnh nông thôn. Câu thơ tiếp theo nhấn mạnh vẻ bình dị trong bữa ăn hàng ngày của ông:
'Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao'
Món ăn của ông là những thực phẩm có sẵn từ ruộng vườn, thể hiện sự giản dị trong cuộc sống. Cuộc sống sinh hoạt của ông giống như người nông dân chân chất, tắm hồ, tắm ao. Hai câu thơ vẽ nên hình ảnh cuộc sống tự nhiên, thoải mái. Tác giả không chỉ thể hiện cuộc sống hàng ngày mà còn truyền đạt triết lý sống, nhân cách của ông:
'Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao '
Tìm kiếm nơi 'yên tĩnh' không phải là lánh xa cuộc sống, mà là để tận hưởng sự thoải mái, hòa mình vào thiên nhiên, tránh xa bụi trần và đua đòi vinh hoa. 'Chốn lao xao' biểu tượng cho cuộc sống hối lộ, chạy theo danh vọng và lợi ích vật chất, nơi mọi người ganh đua và đối đầu. Nguyễn Bỉnh Khiêm rõ ràng theo đuổi lối sống nhàn nhã, không mải mê danh lợi. Tác giả sử dụng lời nói dân dụ để thể hiện quan điểm sống, không quan tâm đến sự khôn ngoan hay dại dột của thế gian. Đó cũng là tư tưởng của những người theo triết lý Nho sĩ thời loạn, tìm kiếm nơi yên bình để ẩn mình. Sự đối chiếu: 'ta' và 'người', 'dại' và 'khôn', 'nơi vắng vẻ' và 'chốn lao xao', tạo nên sự so sánh giữa hai lối sống, nhấn mạnh triết lý sống của tác giả. Cuối cùng, câu thơ khẳng định một lần nữa tư tưởng sống của nhà thơ:
'Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao'
Trong men rượu thơm và sự yên bình của làng quê, nhà thơ nhận ra rằng phú quý thực sự chỉ là một ước mơ thoáng qua, sẽ nhanh chóng tan biến như những đám mây.
Bài thơ thể hiện quan điểm về cuộc sống của nhà thơ và tạo ra hình ảnh của cuộc sống thanh bình tại nông thôn. Đó là một cuộc sống đơn giản và bình lặng, tươi mới nhưng lại rất cao quý. Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện một tâm hồn và một nhân cách sống giản dị, tốt lành.
Đánh giá về cuộc sống và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn, mẫu số 2:
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) trải qua một thời kỳ đầy biến động trong lịch sử Việt Nam, với những cuộc chiến tranh phức tạp như Lê - Mạc và Trịnh - Nguyễn. Trong những thăng trầm đó, ông không chỉ làm sáng tỏ những thế lực tối ác gây rối cuộc sống nhân dân mà còn bảo vệ những giá trị đạo lý cao quý thông qua những bài thơ sâu sắc về nhân sinh và tâm thế, phản ánh tinh thần sâu sắc của một nhà nho lớn. Nhàn, bản thơ Nôm nổi tiếng của ông, là tấm gương sống của một ẩn sĩ thanh cao, vượt lên trên những thách thức của cuộc sống hiện thực và cuộc tranh chấp vì danh lợi.
Nhà thơ đã không ngần ngại đứng vững trên cương vị đạo đức của nho giáo để truyền đạt quan điểm sống của mình. Những tư duy này gắn liền với triết lý đạo đức của nhân dân, thể hiện một quan điểm sống lành mạnh giữa bối cảnh cuộc sống rối bời. Nhàn là hành trình quen thuộc của nhà nho trước thực tại, là sự lạc quan thoát khỏi cuộc sống phức tạp, và tìm niềm vui trong những cung đường của thiên nhiên, giữ cho tâm hồn mình trong trạng thái thuần khiết. Cuộc hành trình đến với niềm vui của Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt trong bối cảnh ngụ ý, kết hợp giữa tính kiêu hãnh và sâu sắc.
Cuộc sống nhàn tản của ông lộ diện với nhiều điều thú vị:
Một buổi sáng, một chuyến đi câu, một cây cần
Ngay trước mắt người đọc, Nguyễn Bỉnh Khiêm hóa thân thành một nông dân chân chất, bận rộn nhưng vẫn giữ được vẻ dân dã. Tuy nhiên, đây chỉ là lựa chọn của ông, một cách thể hiện sự thưởng thức cuộc sống nhàn nhã cao quý của người nho giai. Ông chọn con đường của ngư, tiều, canh, mục, tuyên bố sự đối lập rõ ràng với những niềm vui thú khác, khẳng định giá trị cao quý từ cuộc sống dân dã. Hình ảnh thơ thẩn được vẽ nên độc đáo, mang đến vẻ bình thản ung dung của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản. Thực tế, sự xuất hiện của mai, cuốc, cần câu chỉ làm đẹp thêm cho bức tranh thơ thẩn khác biệt của nhà thơ. Những dụng cụ lao động quen thuộc của dân làng trở thành biểu tượng của cuộc sống giản dị, không bị quấy rối bởi những lo toan xã hội. Đằng sau sự liệt kê, ta nhận thức được suy nghĩ của ông, không tách rời khía cạnh dân dụ của một con người lựa chọn cuộc sống ẩn dật làm triết lý sống của mình. Trạng Trình nhìn thấy sự tinh tế, cao quý trong cuộc sống của nhân dân, một triết lí sống mạnh mẽ.
Điều này là nền tảng giúp nhà thơ khẳng định thái độ sống độc đáo:
Chúng ta dại dột tìm kiếm nơi yên tĩnh, vắng vẻ. Người khôn người tìm đến chốn lao xao
Hai câu thơ đơn giản là cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ và những người, những niềm vui thú khác nhau về nhận thức và tư duy cuộc sống. Sự đối lập đã tạo ra hai khía cạnh rõ ràng: một bên là nhà thơ tự xưng là Ta một cách ngạo mạn, một bên là Người; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của Người; một nơi vắng vẻ so với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo nên lý luận phản biện, khẳng định thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính nhà thơ đã định nghĩa dại - khôn bằng cách nói ngược lại. Vì người đời sử dụng lý lẽ dại - khôn để đánh giá, cạnh tranh làm cho nó trở nên phổ biến và tục tằn, cuốn trôi con người vào vòng xoáy ham muốn ích kỷ. Mà theo cách diễn đạt đó, nhà thơ thể hiện một vị thế cao quý, đối lập với những người mê mải trong bụi phù hoa của chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng tự do trong việc tìm kiếm nơi vắng vẻ, không bị cuốn vào bụi trần xô bồ. Nhưng khác biệt với cách diễn đạt nghịch của Khuất Nguyên xưa kia 'Người đời tỉnh táo, chỉ có mình ta mê mải' đầy bi quan, Trạng Trình cười nhẹ vào thực tế bằng cách lườm mắt mỉm cười, chỉ trích xã hội đang chạy theo danh vọng và lợi lộc, bằng tư cách của một quân tử chính trực không để ý đến những trò đánh đấm của thế giới. Vì vậy, nhà thơ đánh giá cao vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:
Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Khác biệt hoàn toàn với việc thưởng thức các điều vật chất quý giá và ngập tràn trong những vẻ vang và giàu có, Nguyễn Bỉnh Khiêm hưởng thụ những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng với một tâm hồn hoà mình với tự nhiên. Quả thực, ông hít thở không khí của đất trời để làm sạch mọi lo toan tư tưởng cá nhân. Cuộc sống của ông mang đậm dấu ấn của việc lánh xa cuộc sống bình thường, đặc trưng cho quan điểm 'độc thiện kỳ thân' của các nhà nho. Đồng thời, nó còn gần gũi với triết lý 'vô vi' của đạo Lão và tư tưởng 'thoát tục' của đạo Phật. Nếu loại bỏ những triết lý tưởng tượng, ta nhận ra con người nghệ sĩ chân chính của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà mình với thiên nhiên một cách tinh tế bằng sự trong sáng của trái tim. Không chỉ thế, những hình ảnh của măng trúc, giá, hồ sen còn là biểu tượng của phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không có gì để xấu hổ. Sự hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử sống đúng với tinh thần của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được mở rộng bằng sự khẳng định:
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa giấc chiêm bao
Một cách tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng điển tích để mô tả thái độ sống mạnh mẽ, quyết đoán, từ chối công danh và phú quý. Quan điểm này, mặc dù mang dáng vẻ tiêu cực theo truyền thống Lão - Trang, nhưng trong bối cảnh hiện đại, nhà thơ thể hiện ý nghĩa tích cực của nó. Cuộc sống của những người theo đuổi công danh và phú quý, mà ông đặc biệt căm ghét và chỉ trích trong những bài thơ về nhân tình thế thái:
Ở thế mới, người ác đến rồi giàu thì đến, khó khăn thì lui (Thói đời)
Phú quý, kết hợp với quyền lực, đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của những người đầy thủ đoạn, tận dụng lẫn nhau để sống. Họ là những kẻ láu cá gây hại cho nhân dân, điều mà ông rất căm ghét và chỉ trích trong bài thơ 'Tăng thử' của mình. Do đó, việc nhìn nhận phú quý tựa giấc chiêm bao cũng là cách mà nhà thơ chọn để sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống bình dị nhưng thanh cao của người bình thường được đánh giá cao vì mang lại sự hài lòng và giữ cho nhân cách không bị bám bụi trong xã hội đang theo đuổi quyền lực và tiền bạc. Triết lí cơ bản của Nguyễn Bỉnh Khiêm liên quan chặt chẽ với quan niệm sống lành mạnh và tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ Nhàn không chỉ bao quát toàn bộ triết lý, tình cảm và trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà còn thể hiện đầy đủ nhân cách của một bậc đại ẩn, quay trở lại với thiên nhiên và cuộc sống của nhân dân để đối mặt với xã hội đang đi vào sự suy tàn. Bài thơ là một bài học về cuộc sống, là biểu tượng của một con người chân chính.
"""""--KẾT THÚC""""""--
Đánh giá về cuộc sống và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn là một tài liệu vô cùng thú vị mà các bạn nên khám phá. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm Nhàn, bạn cũng có thể đọc thêm về Phân tích chi tiết bài thơ Nhàn để có cái nhìn sâu sắc về tác phẩm cũng như về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm.