Dung dịch nước tinh khiết là loại nước sạch nguyên chất, được sản xuất bằng phương pháp chưng cất và thường được áp dụng trong y tế như làm thuốc tiêm, thuốc uống, dược phẩm đặc biệt, rửa dụng cụ y tế và làm vệ sinh vết thương.
Thành phần của dung dịch nước tinh khiết hoàn toàn không chứa bất kỳ tạp chất hữu cơ hay vô cơ nào, do đó nó là dung môi lý tưởng để rửa dụng cụ thí nghiệm, pha chế hóa chất hoặc thực hiện một số phản ứng hóa học.
Trong thực tế, mọi người thường mua nước tinh khiết từ các nhà thuốc dưới dạng chai. Tuy nhiên, trong điều kiện gia đình thích hợp, vẫn có thể tự điều chế nước tinh khiết bằng cách đun sôi nước lã và thu nước ngưng tụ / hơi nước trong môi trường lạnh.
Phân loại
Nước tinh khiết thông thường được chia thành ba loại: nước tinh khiết cất 1 lần (qua quá trình cất 1 lần), nước tinh khiết cất 2 lần (nước tinh khiết cất 1 lần được cất thêm lần nữa), nước tinh khiết cất 3 lần (nước tinh khiết cất 2 lần được cất thêm lần 3). Ngoài ra, nước tinh khiết còn được phân loại dựa trên thành phần hóa học (như TDS, điện dẫn,...)
Để có được sản phẩm nước tinh khiết đáp ứng tiêu chuẩn cất 1 lần, cất 2 lần và đạt tiêu chuẩn hóa học, người ta căn cứ vào các tiêu chuẩn cơ sở được nhà sản xuất công bố và so sánh với tiêu chuẩn quốc gia và ngành để đánh giá chất lượng.
Hiện nay có hai tiêu chuẩn áp dụng cho nước tinh khiết là: TCVN 4581-89 và Tiêu chuẩn nước tinh khiết trong Dược điển 4.
Nên phân biệt giữa nước cất và nước lò hơi. Nước cất được sản xuất trên dây chuyền bằng thiết bị inox, chỉ nhằm mục đích sản phẩm duy nhất là nước cất. Sau khi bay hơi, nước được ngưng và hứng ngay tại đầu vòi, không thông qua các đường ống vòng vèo, khó vệ sinh. Do đó, nước cất luôn đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn dùng cho phòng thí nghiệm, y tế, dược phẩm, sắc thuốc, ắc quy, kỹ thuật và các ngành công nghệ khác.
Trong phòng thí nghiệm, nước cất cũng được sản xuất bằng máy chưng cất bằng thủy tinh.
Nước lò hơi được làm từ thép và sắt, với các bộ phận ngưng bằng kẽm, sau khi bay hơi, nước được trao đổi nhiệt để làm nóng các thiết bị khác rồi thu hồi lại. Vì vậy, nước lò hơi thường bị nhiễm bẩn và không đủ chất lượng để gọi là nước tinh khiết. Do đó, cần phân biệt rõ sự khác biệt giữa nước cất và nước lò hơi.
Một số phương pháp khác như deion và thẩm thấu ngược RO cũng tạo ra loại nước tinh khiết nhưng chất lượng kém hơn nước cất. Quá trình chưng cất nước cất ở 100 độ C giúp loại bỏ các khoáng chất và các chất hữu cơ, đồng thời oxy hóa các kim loại chuyển tiếp như sắt II thành sắt III, crôm III thành crôm VI. Vì vậy, nước cất có chỉ số oxi hóa thấp hơn, không ảnh hưởng đến khả năng xúc tác của crôm III trong quá trình pha chế kháng sinh vòng không no. Việc loại bỏ các kim loại chuyển tiếp như Crôm III là rất cần thiết để đảm bảo thuốc không thay đổi hoạt tính sinh học và tăng thời gian bảo quản.
Nước cất hoàn toàn không dẫn điện.
Tổng lượng chất rắn hòa tan - TDS
Nước tinh khiết có hàm lượng TDS dưới 50 mg/L. Nước sau xử lý thường có TDS từ 0.5 đến 1.5 mg/L.