Độ tuổi cưới hôn trung bình lần đầu tại TP HCM là 30,4 - mức kỷ lục tại Việt Nam.
Sau khi đọc tin này, bạn tôi nhận xét: TP HCM không chỉ là thành phố có tỷ lệ 'lười sinh con nhất' mà còn là nơi có tỷ lệ 'chậm kết hôn nhất' trong cả nước.
Trong những năm gần đây, độ tuổi kết hôn ở TP HCM luôn cao nhất cả nước, vượt xa nhiều tỉnh thành khác. Năm nay, tuổi kết hôn trung bình lần đầu đã vượt qua mốc 30. Trên toàn quốc, tuổi kết hôn trung bình cũng đang tăng dần, hiện đang ở mức 27,2.
Tuổi kết hôn trung bình của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều nước khác như Nhật Bản (34), Italy (34), Pháp (32,9), Na Uy (33,1), Đức (32,8), Australia (30,6). Xu hướng kết hôn muộn hoặc sống độc thân đang gia tăng không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới.
Kết hôn muộn dẫn đến sinh con chậm, góp phần gia tăng tốc độ già hóa dân số, gây thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ, suy giảm lực lượng lao động và năng suất lao động, đồng thời đặt gánh nặng lớn lên hệ thống an sinh xã hội. Tổng cục Thống kê dự báo, dân số Việt Nam sẽ có hơn 15% dân số từ 65 tuổi vào năm 2039, đánh dấu bước vào giai đoạn dân số già hóa. Sau năm 2055, tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên tại Việt Nam dự kiến sẽ chiếm từ 20% đến dưới 29,9%.
Toàn cầu, vào năm 1950, có khoảng 200 triệu người trên 60 tuổi; vào năm 2020, con số này đã tăng lên 727 triệu người từ 65 tuổi trở lên, và dự báo con số này có thể tăng gấp đôi lên 1,5 tỷ người vào năm 2050.
Nhận thấy sự nghiêm trọng của vấn đề, một số chính phủ đã hợp tác để giải quyết vấn đề này thông qua nhiều chính sách khác nhau.
Nhật Bản đã hỗ trợ các cặp đôi mới kết hôn với một khoản 600.000 yen (hơn 130 triệu đồng) để hỗ trợ chi phí thuê nhà và các chi phí khác, giúp họ ổn định cuộc sống mới. Ngoài ra, Nhật Bản đã thành lập Cơ quan Trẻ em và Gia đình vào tháng 4/2023, nhằm thu thập ý kiến từ các chuyên gia và nghe ý kiến của giới trẻ về lý do họ không muốn kết hôn, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp.
Ngoài các chính sách tài chính, Nhật Bản cũng ưu tiên các chính sách phúc lợi cho phụ nữ mang thai, sinh đẻ và chăm sóc con như cung cấp kiến thức về thai kỳ và điều trị vô sinh, hỗ trợ hậu sinh, bổ sung dịch vụ hỗ trợ việc làm nhà và chăm sóc trẻ, khuyến khích các bố tham gia chăm sóc và nuôi dạy con.
Hàn Quốc đã tăng ngân sách để hỗ trợ các hoạt động khuyến sinh, từ khoảng 2,1 nghìn tỷ won (tương đương 1,57 tỷ USD) vào năm 2006 lên 11,1 nghìn tỷ won vào năm 2012 và đạt 21,4 nghìn tỷ won vào năm 2016 (theo Yonhap và Cơ quan Thống kê Hàn Quốc). Nước này đã công bố nhiều biện pháp như đảm bảo quyền nghỉ phép cho cha mẹ, cung cấp nhà cho các gia đình có nhiều con và tăng cường trợ cấp tiền thuê nhà. Đồng thời, đề xuất thành lập Bộ Cải thiện Tỷ lệ sinh thấp để giám sát sự thay đổi dân số.
Các nước phương Tây cũng đưa ra các giải pháp để giải quyết vấn đề dân số già. Phần Lan thưởng từ vài trăm đến 10.000 euro cho phụ nữ sinh con, cấp trợ cấp khoảng 100 euro cho mỗi đứa trẻ và mở rộng thời gian nghỉ phép nuôi con chung cho cả cha và mẹ lên tới 9 tháng với 70% lương. Hungary miễn thuế thu nhập suốt đời cho phụ nữ sinh hoặc nuôi từ bốn con trở lên. Các lợi ích khác bao gồm: trợ cấp 2,5 triệu forint (hơn 206 triệu đồng) cho các gia đình có ba con trở lên để mua ôtô 7 chỗ; vay lãi suất thấp đến 10 triệu forint cho phụ nữ dưới 40 tuổi kết hôn lần đầu, và khoản vay này sẽ được miễn giảm nếu họ sinh ba con.
Mặc dù có những nỗ lực đáng kể, tình trạng lười sinh con ở các quốc gia này vẫn cải thiện chậm chạp. Tuy nhiên, không áp dụng các chính sách khuyến khích, tỷ lệ kết hôn và sinh con có thể sẽ giảm sút nghiêm trọng hơn. Thực tế này chỉ ra sự thách thức lớn đối với nhiệm vụ tăng tỷ lệ sinh ở các quốc gia hiện nay.
Việt Nam cần chuẩn bị đối phó với tình trạng dân số già hóa trong giai đoạn từ nay đến năm 2039.
Nhà nước đã đưa ra nhiều chương trình hành động nhằm thúc đẩy kết hôn và sinh con dưới 30 tuổi, nhưng các chính sách này vẫn còn chung chung và chưa triển khai quyết liệt. Các chương trình bao gồm phát triển câu lạc bộ kết bạn lâu dài, tư vấn sức khỏe trước khi kết hôn, hỗ trợ với việc mua nhà ở xã hội và thuê nhà, ưu tiên vào các trường công lập, và hỗ trợ chi phí giáo dục cho trẻ em.
Mặc dù các chính sách về sinh con vẫn chưa triển khai mạnh mẽ, tôi thấy hoạt động truyền thông được thúc đẩy nhiều hơn, đặc biệt là trong việc thúc giục sinh con. Những hậu quả của việc sinh con muộn cũng được nhấn mạnh với các thông điệp như nguy cơ cao cho phụ nữ mang thai sau tuổi 35 gồm tiền sản giật, sảy thai, sinh non, và thai ngoài tử cung, cũng như rủi ro về sự xuất hiện của bệnh Down và đột biến gen.
Tôi cảm thấy rằng những người đang do dự hoặc sợ hãi trước việc sinh con có thể sẽ dễ dàng bị thuyết phục bởi những cảm nhận tích cực và hình ảnh tươi sáng, ấm áp mà việc sinh con mang lại.
Các quốc gia khác đã nghiên cứu sâu nguyên nhân của việc kết hôn muộn và đưa ra nhiều giải pháp gốc rễ, tuy nhiên kết quả vẫn chưa đáng kể. Tôi lo rằng những lời kêu gọi này, ở một khía cạnh nào đó, có thể gây áp lực không cần thiết và khó có thể đạt được hiệu quả như mong đợi. Thậm chí, việc chỉ dừng lại ở việc công bố số liệu và kêu gọi chung chung có thể khiến giới trẻ cảm thấy bình chân như vại, cho rằng ngoài kia cũng có nhiều người kết hôn và sinh con muộn như (hoặc hơn) mình.
Mặc dù tuyên truyền và kêu gọi là quan trọng, nhưng điều cần thiết hơn là học hỏi từ bài học và kinh nghiệm của các quốc gia khác để hiểu rõ nguyên nhân và đưa ra những giải pháp phù hợp cho vấn đề lười sinh con và kết hôn muộn ở Việt Nam. Đặc biệt, cần ưu tiên giải quyết những khó khăn, vướng mắc thực tế và phổ biến nhất mà các cặp đôi trẻ đang gặp phải ngày nay.
Ngô Tú Ngân