Chi khỉ đột | |
---|---|
Khỉ đột phía tây (Gorilla) | |
Tình trạng bảo tồn | |
Cực kỳ nguy cấp | |
Phân loại khoa học | |
Vực (domain) | Eukaryota |
Giới (regnum) | Animalia |
Liên ngành (superphylum) | Deuterostoma |
Ngành (phylum) | Chordata |
Nhánh | Craniata |
Phân ngành (subphylum) | Vertebrata |
Phân thứ ngành (infraphylum) | Gnathostomata |
Liên lớp (superclass) | Tetrapoda |
Lớp (class) | Mammalia |
Phân lớp (subclass) | Theria |
Phân thứ lớp (infraclass) | Eutheria |
Liên bộ (superordo) | Euarchontoglires |
Bộ (ordo) | Primates |
Phân bộ (subordo) | Haplorrhini |
Phân thứ bộ (infraordo) | Simiiformes |
Tiểu bộ (parvordo) | Catarrhini |
Liên họ (superfamilia) | Hominoidea |
Họ (familia) | Hominidae |
Phân họ (subfamilia) | Homininae |
Tông (tribus) | Gorillini |
Chi (genus) | Gorilla I. Geoffroy, 1852 |
Loài điển hình | |
Troglodytes gorilla Savage, 1847 | |
Sự phân bố của Gorilla | |
Loài | |
Gorilla gorilla | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Pseudogorilla, D. G. Elliot, 1913 |
Đười ươi (tên khoa học: Gorilla) là một chi thuộc họ người, bộ linh trưởng, động vật ăn cỏ sống trong rừng nhiệt đới châu Phi, là loài lớn nhất trong bộ Linh trưởng còn tồn tại. Đười ươi được chia thành hai loài (có thể có 4 đến 5 phân loài khác). DNA của đười ươi giống với con người từ 98%-99%. Chúng có họ hàng rất gần gũi với con người, chỉ sau hai loài tinh tinh. Loài linh trưởng này có thân hình khổng lồ, cao từ 1,7–2 m khi đứng thẳng và nặng từ 180–200 kg. Đười ươi thường di chuyển bằng bốn chân, mặc dù chúng có khả năng đứng bằng hai chân. Gorilla sống trong các khu rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Phi.
Phân loại
Họ hàng gần nhất của đười ươi là hai loài tinh tinh và con người, tất cả các loài thuộc họ Người đã tách ra từ một tổ tiên chung khoảng 7 triệu năm trước. Chuỗi gen của con người chỉ khác biệt trung bình 1,6% so với chuỗi gen tương ứng của đười ươi. Đến gần đây, đười ươi được coi là một loài duy nhất, với ba phân loài: đười ươi đồng bằng phía tây, đười ươi đồng bằng phía đông và đười ươi núi. Hiện nay có hai loài đười ươi, mỗi loài có hai phân loài. Các loài và phân loài khác nhau phát triển từ một loài đười ươi duy nhất vào kỷ băng hà.
Các nhà nghiên cứu về linh trưởng đang tiếp tục tìm hiểu mối quan hệ giữa các quần thể đười ươi khác nhau. Hầu hết các nhà khoa học đều đồng thuận về các loài và phân loài dưới đây.
Phân loại chi Gorilla | Phát sinh loài của liên họ Hominoidea | |||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|
Gorilla beringei đôi khi được công nhận có phân loài thứ ba, không được đặt tên khoa học ba phần, bao gồm các cá thể đười ươi núi ở Bwindi, thường được gọi là đười ươi Bwindi.
Một số đặc điểm để phân biệt đười ươi bao gồm kích thước, màu lông, chiều dài, tính xã hội và độ rộng mặt. Hiện tại, ước tính có hơn 100,000 cá thể đười ươi đồng bằng phía tây trong tự nhiên, với 4,000 cá thể trong vườn thú; đười ươi đồng bằng phía đông có 4,000 cá thể trong tự nhiên và 24 cá thể trong vườn thú. Đười ươi núi có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất, ước tính chỉ còn khoảng 620 cá thể trong tự nhiên và không có trong các vườn thú.
Đặc điểm
Gorilla thường sống trên mặt đất, di chuyển bằng bốn chân và chỉ đứng bằng hai chân khi chuẩn bị chiến đấu. Vào ban đêm, chúng có thể ngủ trên cây. Dù có kích thước lớn, Gorilla vẫn có khả năng leo cây rất tốt.
Đười ươi di chuyển bằng đốt ngón tay, mặc dù đôi khi chúng có thể đứng thẳng khi mang theo thức ăn hoặc trong tình huống tự vệ. Đười ươi trưởng thành trong tự nhiên nặng từ 135 đến 180 kg (298 đến 397 lb), trong khi con cái thường chỉ nặng bằng một nửa so với con đực, từ 68 đến 113 kg (150 đến 249 lb). Con đực trưởng thành có chiều cao từ 1,7 đến 1,8 m (5,6 đến 5,9 ft), với sải tay từ 2,3 đến 2,6 m (7,5 đến 8,5 ft). Con cái có sải tay ngắn hơn. Đười ươi đực trưởng thành được gọi là 'lưng bạc' do có vùng lông bạc trên lưng. Đôi khi, một con lưng bạc có thể cao hơn 1,8 mét (5 ft 11 in) và nặng 230 kg (510 lb) được ghi nhận trong tự nhiên. Những con đười ươi béo phì trong điều kiện nuôi nhốt có thể nặng tới 270 kg (600 lb).
Phân bố và môi trường sống
Đười ươi sống trong các khu rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Phi. Hai loài đười ươi hiện nay là Đười ươi núi rất quý hiếm, sống trong rừng trên núi Albertine Rift ở độ cao từ 2225 đến 4267 m, thuộc dãy Virunga phía đông châu Phi. Loài thứ hai là Đười ươi đồng bằng sống tại những khu rừng rậm rạp, đầm lầy và các vùng ngập nước gần mực nước biển.
Thức ăn
Chế độ ăn chủ yếu của chúng là các loại thực vật như cây mọng nước, chồi non, và hơn thế nữa. Gorilla thường sống trong những khu rừng rậm rạp, nơi có nhiều cây cối, cung cấp nguồn thực phẩm quan trọng cho chúng. Dù có kích thước to lớn và mạnh mẽ, thực tế các con đười ươi chủ yếu ăn thực vật và hiếm khi tấn công những loài động vật khác.
Hành vi
Đười ươi sống theo bầy đàn dưới sự lãnh đạo của một con đực to lớn nhất. Nhiệm vụ của con đực là dẫn dắt và bảo vệ cả đàn khỏi sự tấn công của thú dữ. Kẻ thù nguy hiểm nhất của đười ươi là loài báo hoa mai rất hung bạo. Khi bị đe dọa, con đực sẽ đứng thẳng và dùng hai tay đấm mạnh vào bụng để cảnh báo trước khi chiến đấu. Đười ươi được biết đến như một loài dã thú mạnh mẽ với ngoại hình to lớn, khỏe hơn nhiều so với con người, đôi tay mạnh mẽ, và cú đấm của đười ươi có thể làm biến dạng mọi vật trước mặt. Mặc dù có thân hình khổng lồ, Gorilla có tốc độ chạy trung bình khoảng 40 km/h.
Tình trạng bảo tồn
Tất cả các loài (và các phân loài) khỉ đột đều được xếp vào danh sách cực kỳ nguy cấp trong Danh sách đỏ của IUCN. Hiện tại, có hơn 100.000 con khỉ đột vùng thấp phía tây được ước tính tồn tại trong tự nhiên, với khoảng 4.000 con trong các sở thú; trong khi khỉ đột vùng thấp phía đông có dân số dưới 5.000 con trong tự nhiên và 24 con trong sở thú. Khỉ đột núi là loài có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất, ước tính còn khoảng 880 con trong tự nhiên và không có loài nào trong vườn thú. Các mối đe dọa đối với sự sống còn của khỉ đột bao gồm sự phá hủy môi trường sống và nạn săn trộm để buôn bán thịt rừng. Năm 2004, một quần thể vài trăm con khỉ đột ở Công viên Quốc gia Odzala, Cộng hòa Congo đã bị virus Ebola tàn phá nặng nề. Một nghiên cứu năm 2006 công bố trên tạp chí Science cho biết hơn 5.000 con khỉ đột có thể đã chết trong các đợt bùng phát virus Ebola gần đây ở miền trung châu Phi. Các nhà nghiên cứu cho rằng, bên cạnh việc săn bắt những con vượn này, virus tạo ra 'công thức tuyệt chủng sinh thái' nhanh chóng. Những nỗ lực bảo tồn hiện nay bao gồm Dự án Sinh tồn Vượn lớn, sự hợp tác giữa Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc và UNESCO, cùng với Hiệp định về Bảo tồn Khỉ đột và Môi trường sống của chúng, được ký kết dưới sự quản lý của UNEP Công ước về các loài di cư. Hiệp định Gorilla là công cụ pháp lý đầu tiên chuyên biệt nhằm bảo tồn khỉ đột và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 6 năm 2008.