Tình yêu quê hương là sợi chỉ đỏ nối liền qua các trang sách lịch sử của dân tộc. Tình cảm ấy được bày tỏ mạnh mẽ trong những lời tâm huyết của các nhà lãnh đạo lịch sử. Chúng ta có thể nhìn thấy điều này trong các văn bản đặc biệt như “Chiếu dời đô” của Lí Thái Tổ, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn.
Chiếu dời đô
Nhờ lòng đau đáu cho sự phát triển của đất nước, vua đã chọn ra thành Đại La làm nơi đóng đô mới. Thành phố này có vị trí thuận lợi và môi trường lý tưởng cho phát triển kinh tế, chính trị và văn hóa của đất nước.
Trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, lòng yêu nước hiên ngang được thể hiện rõ qua nhiều khía cạnh khác nhau.
Tác giả mô tả sự tàn ác và bất nhân của kẻ thù một cách rõ ràng: 'Nhìn thấy kẻ giặc nghiêng nước nghiêng thành, nói xấu triều đình, bắt nạt dân, cướp của hắn Hốt Tất Liệt, dùng tên Vân Nam Vương để ăn lậu và thu gom vàng bạc, chỉ để làm đầy túi của mình. Điều này như việc nuôi hổ đói bằng thịt, chống lại việc tránh khỏi tai ương trong tương lai!'. Qua những từ ngữ này, hình ảnh của quân thù được làm sáng tỏ và tác giả cũng biểu lộ sự căm hận và khinh thường cực độ của mình đối với chúng. Điều này được thể hiện mạnh mẽ qua việc tác giả sử dụng lối nói bóng gió, so sánh, ẩn dụ: lưỡi cú diều, thân dê chó, hổ đói,... ; các hình ảnh được đặt trong bối cảnh đối lập để thể hiện rõ sự căm hận, khinh thường: nghiêng nước nghiêng thành - nói xấu triều đình, bắt nạt dân.
Sau khi chỉ trích tội ác của kẻ thù, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện tình yêu nước, căm thù đối với quân giặc, có thể xem đây là phần văn hay nhất của bài hịch: 'Ta thường quên ăn, nửa đêm vẫn lo lắng; ruột đau như bị cắt, nước mắt tràn đầy; chỉ căm tức chưa được giải phóng, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho cơ thể bị xé tan, xác hóa thành đất, ta cũng hạnh phúc.' Nỗi đau trước tình trạng mất nước nhưng lòng hi sinh cho quốc gia được mô tả rất đắng cay: quên ăn, không ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt tràn đầy. Sự căm hận đạt đến đỉnh điểm khi tác giả thể hiện sự khinh bỉ của mình đối với quân thù: chỉ căm tức chưa được giải phóng, nuốt gan, uống máu quân thù. Vị tướng đã quyết định sẵn lòng hy sinh cho đất nước: Dù thân xác bị ném ra đất, xác thịt bị vùi vào lòng đất, ta vẫn hạnh phúc. Thông qua đoạn văn này, hình tượng người anh hùng yêu nước, sẵn sàng hi sinh cho quê hương được vẽ nét sắc nét. Sự tận tụy, sự dũng cảm của vị tướng có sức thuyết phục mạnh mẽ, truyền cảm hứng cho người đọc về lòng yêu nước, sự căm hận với quân thù và sự sẵn sàng hi sinh cho đất nước.
Không chỉ thế, tấm lòng yêu nước của người tướng quân được thể hiện sâu sắc qua lòng trung thành của một vị lãnh đạo với binh lính của mình: 'Các ngươi đã sống cùng tôi trong bao năm, (...) khi chiến trận đến, chúng ta cùng chống địch, khi sống bình yên, chúng ta cùng vui vẻ.'' Đó chính là tấm lòng con cái đối với cha!
Có thể nói, tấm lòng yêu nước của các tác giả hiển hiện qua hai văn bản “Chiếu dời đô” của Lí Thái Tổ, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn” là vô cùng đa dạng, phong phú, nhưng đều nhấn mạnh vào mong muốn đất nước hòa bình, phồn thịnh. Tấm lòng ấy không chỉ được thể hiện một cách sâu sắc qua hai văn bản mà còn được hai nhà lãnh đạo tài ba khẳng định bằng những đóng góp thực tế cho sự phát triển vĩ đại của dân tộc.