Hoàng Lê nhất thống chí là một cuốn sách lịch sử chương hồi của một số tác giả trong trường phái văn hóa Ngô. Cuốn sách này tóm tắt một giai đoạn lịch sử với nhiều biến cố đau lòng và đầy máu chảy từ thời Trịnh Sâm trị vì cho đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1868 - 1802) như: cuộc loạn binh nổi dậy, sự sụp đổ của triều Lê - Trịnh, chiến công đại trà của Nguyễn Huệ đối với Mãn Thanh, và sự lật đổ của Gia Long đối với triều đại Tây Sơn
Sự sụp đổ không thể tránh khỏi của triều đại Lê-Trịnh và sức mạnh của phong trào nông dân Tây Sơn được thể hiện rõ qua Hoàng Lê nhất thống chí. Đặc biệt, Hồi thứ mười bốn đã mô tả một cách hùng hồn sức mạnh của dân tộc đối diện với kẻ thù từ bên ngoài và vẽ nên hình ảnh của Nguyễn Huệ, vị anh hùng dân tộc đã ghi danh bằng chiến công Đống Đa bất tử.
Như được đưa về những khoảnh khắc lịch sử quan trọng và hùng vĩ của dân tộc vào cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Ki Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống đã dẫn đầu 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, đổ về xâm lược đất nước ta. Tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã bắt đầu hồi XIV với những dòng chữ:
Trận Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thất bại,
Rời Thăng Long, Chiêu Thống lẩn trốn ra ngoài.
Trong thời điểm khó khăn đó, người cứu vãn cho dân tộc là Nguyễn Huệ, một anh hùng nổi tiếng từ Tây Sơn. Vào ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, Thăng Long bị chiếm phủ bởi Tôn Sĩ Nghị. Tướng Ngô Văn Sở rút quân về Tam Điệp để trú tạm. Ngày 24, Nguyễn Huệ được tin báo tin tức và vào ngày 25, ông lên ngôi vua với lời tuyên thệ 'trước trời đất và các thần linh của sông, núi'. Ông nhận niên hiệu là Ọuang Trung. Nguyễn Huệ ra lệnh xuất quân đi Bắc. Đến ngày 29, ông đến Nghệ An để tuyển quân thêm một vạn người tinh nhuệ. Sau đó, Nguyễn Huệ tổ chức diễu binh và truyền hịch để đối đầu với quân Thanh, vạch trần kế hoạch xâm lược của chúng 'kế hoạch muốn biến Nam nước ta thành quận huyện; kêu gọi tướng sĩ đoàn kết, hợp lực, để tạo ra chiến công lớn'... Nhà vua chia quân thành 5 đoàn (tiền, hậu, tả, hữu, trung quân) và sau đó nhanh chóng hội quân tại Tam Điệp cùng với quân cánh của Ngô Văn Sở. Quang Trung chia quân lớn thành 5 đạo, cho quân ăn Tết Nguyên đán trước, 'bảo đảm kín' với các tướng soái đến tối ngày 30, nhanh chóng tấn công quân Thanh và hẹn ngày mồng 7 của năm mới vào Thăng Long để 'tổ chức bữa tiệc ăn mừng”. Từ đó, chúng ta có thể thấy rõ Quang Trung có chiến lược chiến tranh sâu sắc, thông minh, giàu mưu lược, và thể hiện tinh thần quyết tâm chiến đấu, chiến thắng quân xâm lược. Các sự kiện như lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân, tuyển quân và truyền hịch tại Nghệ An, cho quân sĩ ăn Tết Nguyên đán trước;
Đặc biệt, nhà vua đã tạo ra một yếu tố bất ngờ bằng cách tấn công quân Thanh vào dịp Tết khi chúng 'chỉ quan tâm đến việc thưởng thức tiệc tùng vui vẻ, không hề nghĩ đến chiến tranh'' để thể hiện quyết đoán của một thiên tài quân sự trong thời điểm khó khăn của Tổ quốc.
Tác giả sử dụng lời của nhân chứng cũ để làm nổi bật phẩm chất anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ trước khi trận Đánh Ngọc Hồi diễn ra:
'Chẳng ai biết, Nguyễn Huệ là một vị anh hùng tài ba, gan dạ và tài năng chỉ huy quân đội. Khiến người ta ngưỡng mộ khi hắn từ Bắc xuống Nam, xuất hiện như một thần thánh, không ai có thể đoán trước được. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết lợn non mà không ai dám nhìn thẳng vào mắt hắn. Khi hắn chỉ tay, nhìn mắt, người ta đều run sợ, sợ hơn cả tiếng sét'.
Nguyễn Huệ là một anh hùng có khả năng điều binh chỉ huy, lên kế hoạch chiến thuật như một thần. Thành công như con dao sắc bén. Bắt sống toàn bộ đoàn quân Thanh làm thám tử tại Phú Xuân, sử dụng mưu phủ kín làng Hà Hồi, quân Thanh 'sợ hãi và bỏ chạy' đầu hàng. Sử dụng chiêu mưu ghép ba tấm ván thành một tấm ván rồi che phủ bằng rơm và nước, tổng cộng 20 tấm; mỗi tấm có 20 dũng sĩ, chúng đứng dàn thành hình chữ 'nhất' và lao thẳng vào đồn Ngọc Hồi. Súng của quân Thanh bắn ra không hiệu quả. Vua Quang Trung cưỡi voi lãnh đạo chiến dịch. Vào sáng ngày 5, đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống tự tử, hàng vạn quân giết chết 'thây nằm đầy cánh đồng, máu chảy thành dòng, quân Thanh thất bại to lớn'. Vua đã đặt quân binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, hợp lực vây quân Thanh tại Quỳnh Đô, quân địch chạy xuống đầm Mực và bị quân Tây Sơn 'truy đuổi đến chết hàng vạn người'. Sau khi chiến thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng Thăng Long vào trưa ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu, trước lịch trình 2 ngày. Với chiến thuật thông minh, tin vào sức mạnh chiến đấu và tinh thần yêu nước của tướng sĩ, của nhân dân, ta mới có niềm tin chắc chắn ấy. Chiến thắng Đống Đa năm 1789 đã làm sáng ngời tên tuổi anh hùng Nguyễn Huệ mãi mãi.'
Các tác giả của Hoàng Lê nhất thông chí đã trải qua sự hậu sinh của nhà Lê, họ có lòng tôn trọng với vua Lê nhưng khi đối mặt với sự xâm lược và chiến công hùng hồn tại Đống Đa, họ đã đứng vững trên quan điểm dân tộc, viết ra những bức tranh tuyệt vời nhất, tạo nên một hình tượng lịch sử vĩ đại về người anh hùng Nguyễn Huệ. Chỉ vài năm sau đó, trong bài thơ Ai tư vấn đứng khóc vua Quang Trung đã được Ngọc Hân công chúa viết:
Bây giờ áo cờ đào phục quốc,
Giúp dân xây dựng nước, công trình vĩ đại.
Hình ảnh của anh hùng Quang Trung trong văn học để lại trong ta cảm nhận mạnh mẽ và ngưỡng mộ.
Bằng cách sử dụng kỹ thuật tương phản, các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí mô tả và làm nổi bật sự thất bại của quân Thanh trong cuộc xâm lược cùng số phận đau lòng, khốn khó của những vị quan vua phản bội dân tộc.
Tôn Sĩ Nghị là chỉ huy của 29 vạn quân Thanh trong cuộc xâm lược nước ta. Khi chiếm Thăng Long 'không gặp phải sự kháng cự nào, như đi vào vùng đất hoang vu' hắn tỏ ra vô cùng 'kiêu căng và không chút suy tư'. Các tướng lĩnh chỉ biết 'tham gia những cuộc tiệc tùng vui vẻ, không để ý đến chiến tranh'. Chúng khoe khoang tuyên bố sẽ đưa quân đến thủ đô của Tây Sơn vào mùa xuân để 'bắt sống, không một kẻ nào thoát khỏi!'.
Tuy nhiên, trước sức mạnh tấn công dữ dội của Nguyễn Huệ, hàng loạt đồn giặc bị tiêu diệt. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị hủy hoại, Sầm Nghi Đống phải tự tử. Hàng vạn quân Thanh thất thủ tại đầm Mực. Tôn Sĩ Nghị 'lo sợ mất bí mật, ngựa chưa kịp đóng yên, quân nhân chưa kịp mặc giáp... rồi chạy về hướng bắc'. Quân đội 'hoảng loạn, tan tác và bỏ chạy'. Chúng đua nhau trốn, va đâm nhau đẩy nhau rơi xuống sông. Phao đánh bể, hàng vạn quân thất thủ và chết dưới nước, đến mức nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Những kẻ sống sót đều chạy về nước!
Những kẻ Việt gian bán nước như Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Trịnh Hiến khi bỏ trốn trên đường trở thành lũ ăn cướp. Chúng hoảng hồn chạy đến Nghi Tàm, 'đột nhiên gặp một chiếc thuyền đánh cá và nhanh chóng cướp lấy rồi chèo qua bờ bắc”
Tại cửa khẩu, Lê Chiêu Thống và đám thần tín 'phàn nàn, oán trách, rơi nước mắt 'trông thực thảm, nhục nhã. Còn Tôn Sĩ Nghị 'cũng đầy nhục nhã'. Dù đã chết nhưng lòng tự tôn vẫn không chấp nhận! Lê Chiêu Thống thậm chí hứa 'sẽ xin làm tôi tướng quân', tức là tiếp tục lùa voi về để giày mả tổ! Còn Tôn Sĩ Nghị vẫn khăng khăng: 'Nguyễn Quang Trung chưa chết, chuyện này chưa xong!'.
Có thể nói, hình ảnh bọn xâm lược và kẻ bán nước được mô tả qua nhiều chi tiết mỉa mai, thể hiện một tư duy khinh thường sâu sắc.
Đọc về Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) ta hiểu rõ hơn về lòng tự ái của quân xâm lược phương Bắc và mưu đồ của thiên triều, cũng như bộ mặt đê tiện của bọn phản dân gian. Ta càng tự hào về truyền thống yêu nước, về những anh hùng của dân tộc ta, và vô cùng tôn trọng và biết ơn Nguyễn Huệ, nhà tài tình quân sự của Đại Việt.
Nghệ thuật kể chuyện, phong cách miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động, tạo ra những đoạn văn hùng tráng đẹp mắt không chỉ phong phú về mặt văn học mà còn sâu sắc về lịch sử.
Trích : Mytour