Torres trong màu áo Atlético Madrid năm 2017 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Fernando José Torres Sanz | ||
Ngày sinh | 20 tháng 3, 1984 (40 tuổi) | ||
Nơi sinh | Fuenlabrada, Tây Ban Nha | ||
Chiều cao | 1,84 m (6 ft 1⁄2 in) | ||
Vị trí | Tiền đạo cắm | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay |
U-19 Atlético Madrid (huấn luyện viên) | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1995–2001 | Atlético Madrid | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2001–2007 | Atlético Madrid | 214 | (82) |
2007–2011 | Liverpool | 102 | (81) |
2011–2015 | Chelsea | 110 | (45) |
2014–2015 | → Milan (mượn) | 10 | (1) |
2015–2016 | Milan | 0 | (0) |
2015–2016 | → Atlético Madrid (mượn) | 49 | (14) |
2016–2018 | Atlético Madrid | 58 | (13) |
2018–2019 | Sagan Tosu | 35 | (7) |
Tổng cộng | 578 | (200) | |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2000 | U-15 Tây Ban Nha | 1 | (0) |
2001 | U-16 Tây Ban Nha | 9 | (11) |
2001 | U-17 Tây Ban Nha | 4 | (1) |
2002 | U-18 Tây Ban Nha | 1 | (1) |
2002 | U-19 Tây Ban Nha | 5 | (6) |
2002–2003 | U-21 Tây Ban Nha | 10 | (3) |
2003–2014 | Tây Ban Nha | 110 | (38) |
Sự nghiệp quản lý | |||
Năm | Đội | ||
2021– | U-19 Atlético Madrid | ||
Thành tích huy chương | |||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Fernando José Torres Sanz (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [ferˈnando ˈtores]; sinh ngày 20 tháng 3 năm 1984) là một cựu cầu thủ và là một huấn luyện viên bóng đá người Tây Ban Nha. Anh là một huyền thoại của câu lạc bộ Atlético Madrid,Liverpool và cũng là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất mà bóng đá Tây Ban Nha từng sản sinh. Hiện tại, anh đang làm huấn luyện viên đội U-19 Atlético Madrid.
Torres sinh ra tại Fuenlabrada, một thị xã ngoài ô của Madrid. Anh là cầu thủ trẻ tuổi nhất từng chơi cho Atlético Madrid và là cầu thủ trẻ nhất trở thành đội trưởng (lúc 19 tuổi). Biệt danh của anh là 'El Niño' (đứa trẻ) nhằm để chỉ sự xuất hiện của anh ở La Liga như một hiện tượng cuồng phong mạnh mẽ.
Anh gia nhập câu lạc bộ Liverpool ở Premier League vào năm 2007. Anh có mùa giải đầu tiên ở Anfield với việc trở thành cầu thủ đầu tiên của Liverpool ghi hơn 20 bàn trong một mùa giải từ 1995-1996. Anh rời câu lạc bộ vào tháng 1 năm 2011 và gia nhập Chelsea, biến anh trở thành cầu thủ đắt giá nhất câu lạc bộ và đắt giá nhất Tây Ban Nha với mức phí chuyển nhượng 50 triệu bảng Anh. Ngay mùa giải đầu tiên, anh đã vô địch Cúp FA và UEFA Champions League, mặc dù anh có bị chỉ trích vì số bàn thắng khiêm tốn mà anh ghi được. Mùa giải sau, anh có bàn thắng quan trọng trong trận chung kết Europa League giúp Chelsea lần đầu tiên đăng quang tại đấu trường này. Anh cùng đồng đội Juan Mata trở thành hai cầu thủ đầu tiên đăng quang cả bốn giải đấu danh giá là World Cup, Euro, UEFA Champions League và UEFA Europa League.
Anh cũng là một cầu thủ của đội tuyển Tây Ban Nha,anh có trận đấu đầu tiên cho tuyển đấu với Bồ Đào Nha vào năm 2003. Ngày 29 tháng 6 năm 2008, Torres ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết với đội tuyển Đức. Tây Ban Nha trở thành nhà vô địch châu Âu 2008. Nhờ những thành tích nổi bật trong năm, anh xếp thứ ba trong cuộc bình chọn Quả bóng vàng châu Âu 2008.
Ngày 2 tháng 7 năm 2012 Torres ghi bàn thắng nâng tỉ số lên 3-0 và kiến tạo cho đồng đội Juan Mata ghi bàn góp phần vào chiến thắng 4-0 trước Ý, đưa Tây Ban Nha đi vào lịch sử với tư cách là đội bóng đầu tiên vô địch 2 kì Euro liên tiếp. Riêng cá nhân Torres nhận danh hiệu Chiếc giày vàng châu Âu ở giải đấu và đi vào lịch sử bóng đá thế giới với tư cách là cầu thủ ghi bàn ở hai trận chung kết (Euro 2008 và 2012). Ngày 21 tháng 6 năm 2019, Fernando Torres chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 24 năm thi đấu chuyên nghiệp.
Tuổi thơ
Sinh ra ở Fuenlabrada, Cộng đồng Madrid, Torres có hứng thú với bóng đá từ khi còn là một đứa trẻ và gia nhập đội bóng đầu tiên, Parque 84, khi mới 5 tuổi. Cha anh José Torres phải làm việc khi Torres còn nhỏ, và mẹ anh Flori Sanz hằng ngày đều đưa anh đến sân tập. Ông của Torres không hẳn là một người đam mê bóng đá, nhưng vẫn tự hào là một cổ động viên của Atletico Madrid, và Torres thừa hưởng tình yêu với đội bóng từ người ông.
Torres khởi nghiệp trong vai trò của một thủ môn, vị trí thi đấu của người anh trai. Tuy nhiên, khi Torres lên 7, anh bắt đầu chơi ở vị trí tiền đạo cho một câu lạc bộ địa phương, Mario's Holland, ở một giải đấu trong nhà, lấy cảm hứng từ nhân vật trong bộ truyện tranh Nhật Bản 'Đội trưởng Tsubasa'. Ba năm sau, khi Torres 10 tuổi, anh được chọn vào đội bóng 11 người, Rayo 13. Anh ghi 55 bàn thắng trong một mùa giải và là một trong ba cầu thủ Rayo 13 được thử việc ở Atletico Madrid. Anh gây ấn tượng với các tuyển trạch viên và gia nhập lò đạo tạo đội bóng ở tuổi 11 vào năm 1995.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Atletico Madrid
Sau những tiến bộ vượt bậc, Torres có danh hiệu quan trọng cùng đội trẻ đầu tiên vào năm 1998. Atletico Madrid gửi đội U-15 để tham dự giải Nike Cup, ở Tây Ban Nha và châu Âu, để đấu với đội trẻ từ các câu lạc bộ khác.Atletico vô địch giải đấu. Anh sau đó được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu ở lứa tuổi đó. Vào năm 1999, Torres ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên cùng Atletico Madrid. Anh dành năm đầu chơi ở đội trẻ và chuyển lên để tham dự giải hạng nhất khi anh mới 16. Vào mùa giải 2000-01 anh có sự khởi đầu tồi tệ, khi Torres bị dính chấn thương ống chân khiến anh phải rời xa sân cỏ tới tháng 12. Torres tập cùng đội 1 để chuẩn bị cho mùa giải kế tiếp, nhưng cuối cùng anh lại có trận đấu đầu tiên vào ngày 27 tháng 5 năm 2001, ở sân Vicente Calderon, tiếp CD Leganes. Một tuần sau, anh ghi bàn đầu tiên cho câu lạc bộ khi tiếp Albacete Balompie và mùa giải đó Atletico đã không thể được lên chơi ở La Liga.
Atletico được lên chơi ở La Liga ở cuối mùa giải 2001-02.Torres không thi đấu tốt ở mùa giải đó, khi anh chỉ ra sân 6 trận trong tổng cộng 36 trận ở Segunda Divison. Mùa giải 2002-03 đối với Torres có tốt hơn, dù sao, anh ghi 12 bàn trong 29 lần ra sân và Atletico Madrid kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 11. Vào mùa giải 2003-04, mùa giải thứ hai của anh ở La Liga, Torres có bước tiến lớn, ghi 19 bàn trong 35 lần ra sân, có nghĩa anh đứng thứ 3 trong danh sách vua phá lưới của giải đấu. Anh cùng tiền đạo người Hi Lạp Demis Nikolaidis tạo thành một bộ đôi tấn công ăn ý. Hai cầu thủ này bổ sung cho nhau, tạo khoảng trống và cơ hội cho mỗi người rồi cùng nhau ghi 26 bàn. Ở tuổi 19, Torres chính thức là đội trưởng của Atletico Madrid. Atletico Madrid năm đó đã bị loại khỏi cúp UEFA từ vòng bảng, nhưng kết thúc mùa giải với vị trí thứ 7 vào năm 2004, họ được tham dự vòng loại cúp Intertoto, và Torres là ngôi sao sáng nhất của giải đấu. Anh ghi 2 bàn trong 2 trận tiếp OFK Beograd, với 1 bàn ở mỗi lượt. Atletico Madrid đi tới trận chung kết, nhưng thất bại trên chấm phạt đền trước Villarreal CF. Đương kim vô địch Premier League Chelsea tin tưởng rằng họ sẽ có được Torres vào năm 2005, nhưng chủ tịch Atletico Madrid Enrique Cerezo cho biết họ không có cơ hội để chiêu mộ anh. Cerezo sau đó vào tháng 1 năm 2006 nói rằng câu lạc bộ sẽ xem xét các mức giá dành cho Torres và Torres khẳng định Newcastle United đã đưa ra mức giá cho anh vào tháng 3.
Torres chơi cho đội tuyển Tây Ban Nha ở World Cup 2006. Sau World Cup anh cho biết đã từ chối lời đề nghị gia nhập Chelsea vào cuối mùa giải 2005-06. Torres ghi 14 bàn trong giải quốc nội ở mùa giải 2006-07, nhưng tương lai của anh ở Atltico một lần nữa lại là chủ đề đặc biệt khi câu lạc bộ thất bại trong việc đăng quang cúp UEFA. Các hãng thông tấn Anh đưa tin rằng anh đang muốn chuyển đến Liverpool, nhưng Cerezo cho biết, 'Chúng tôi chưa nhận được lời đề nghị nào từ Liverpool hay bất kì đội bóng nào cho cậu ấy'. Tuy nhiên, chỉ vào ngày sau, các hãng thông tấn lại đưa tin Atletico đã đạt được thoả thuận với Liverpool về Torres. Mức giá được đồn là vào khoảng 25 triệu bảng Anh cộng với Luis Garcia chuyển đến Atletico như một phần của cuộc chuyển nhượng. Vào ngày 30 tháng 6, Atletico thông báo đã mua được Diego Forlan từ Villarreal, đó như là một sự thay thế cho Torres trước khi anh chính thức ra đi. Vào ngày 2 tháng 7, thông tin cho rằng Torres đã cắt ngắn kì nghỉ để bay tới Madrid để hoàn thành việc chuyển tới Liverpool. Vài ngày sau, Torres vượt qua cuộc kiểm tra sức khoẻ ở Liverpool. Anh có một buổi lễ ở Madrid vào ngày 4 tháng 7 để chia tay cổ động viên Atletico, trước khi hoàn thành việc chuyển tới Liverpool với bản hợp đồng 6 năm. Đó là mức giá chuyển nhượng kỉ lục trong lịch sử Liverpool. Vào tháng 3 năm 2008, huấn luyện viên Rafael Benítez cho biết trong một cuộc phỏng vấn cho tờ The Times rằng mức giá của Torres vào khoảng 20 triệu bảng Anh, mặc dù vụ chuyển nhượng này có cả việc Garcia chuyển tới Atletico.
Liverpool
Torres đã có trận đấu chính thức đầu tiên cho Liverpool trong trận gặp Aston Villa, khi Liverpool giành chiến thắng 2-1 vào ngày 11 tháng 8 năm 2007. Anh cũng tham gia trận đấu đầu tiên của mình ở Cúp C1 chỉ 4 ngày sau đó, trong chiến thắng trước Toulouse FC, sau khi vào sân ở phút 79. Bàn thắng đầu tiên của anh ở Premier League trên sân Anfield đến vào ngày 19 tháng 8, ở phút thứ 16 trong trận hòa với Chelsea. Cú hat-trick đầu tiên của Torres là trong chiến thắng 4-2 trước Reading ở Cúp Liên đoàn vào tháng 9, với tất cả các bàn thắng được ghi trong hiệp 2. Bàn thắng đầu tiên của anh ở Cúp C1 đến trong trận đấu thứ ba của mình ở giải đấu khi đánh bại FC Porto 4-1, với 2 bàn thắng
Anh là Cầu thủ xuất sắc nhất Premier League tháng 2, khi ghi được 4 bàn trong 2 trận, trong đó có một cú hat-trick trong trận đấu với Middlesbrough vào ngày 23 tháng 2 năm 2008. Cú hat-trick này và chiến thắng 4-0 trước West Ham United vào ngày 5 tháng 3 năm 2008 đã giúp anh trở thành cầu thủ đầu tiên của Liverpool kể từ Jackie Balmer từ năm 1946 ghi được một cú hat-trick trong 2 trận liên tiếp trên sân nhà. Sau đó, vào tháng 3, sau khi ghi bàn đầu tiên bằng đầu trong trận gặp Reading tại Anfield, anh đã trở thành cầu thủ đầu tiên của Liverpool kể từ Robbie Fowler trong mùa giải 1995-1996 ghi được 20 bàn ở giải VĐQG. Vào tháng 4, anh ghi thêm một bàn trong Cúp C1, lần này vào lưới Arsenal ở lượt về tứ kết, giúp Liverpool lọt vào bán kết. Bàn thắng này cũng đưa tổng số bàn thắng của anh trong mùa giải 2007-08 lên con số 29, vượt qua thành tích của Michael Owen. Vào ngày 11 tháng 4 năm 2008, Torres được bầu vào top 6 cầu thủ xuất sắc nhất Premier League, trước khi Cristiano Ronaldo của Manchester United giành giải. Đội tuyển Tây Ban Nha cũng có một thành viên khác được vinh danh, đó là Cesc Fabregas của Arsenal, được bầu là Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm. Vào tháng 5, anh đứng thứ hai sau Cristiano Ronaldo cho danh hiệu cầu thủ ghi bàn nhiều nhất
Vào ngày 4 tháng 5 năm 2008, Torres ghi bàn trong chiến thắng trước Manchester City, cân bằng kỉ lục ghi bàn liên tiếp ở Anfield trong 8 trận với Roger Hunt. Sau khi ghi bàn thắng thứ 24 trong mùa giải trong trận đấu cuối cùng của mùa giải, thắng 2-0 trước Tottenham Hotspur, anh lập kỉ lục về số bàn thắng ghi được trong mùa giải đầu tiên chơi ở Premier League của cầu thủ nước ngoài, vượt qua Ruud Van Nistelrooy với 23 bàn. Torres kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 2 cùng với Emmanuel Adebayor trong danh sách vua phá lưới giải. Anh là một đề tài được dư luận bàn tán khi Chelsea đề xuất 50 triệu bảng để mua anh, nhưng Torres từ chối và cho biết anh sẽ ở lại Liverpool nhiều năm nữa. Đồng chủ tịch Liverpool, Tom Hicks, phủ nhận tin đồn này và tuyên bố sẽ không bán Torres với bất cứ giá nào.
Torres có một khởi đầu triển vọng trong mùa giải 2008-09, ghi bàn duy nhất trong chiến thắng 1-0 trước Sunderland. Anh sau đó bị chấn thương gân kheo trong trận hòa 0-0 với Aston Villa, khiến anh phải ngồi ngoài 3 tuần. Torres trở lại với một bàn thắng quyết định trong trận derby Merseyside với Everton vào ngày 27 tháng 9 giúp Liverpool thắng 2-0. Anh tiếp tục ấn tượng với 2 bàn thắng trong trận thắng 3-2 trước Manchester City trên sân khách, trong đó bàn thắng đầu tiên là bàn thứ 1000 của Liverpool ở Premier League. Torres bị chấn thương gân kheo trong trận đấu vòng loại World Cup 2010, khiến anh phải ngồi ngoài 3 trận cùng Liverpool. Vào ngày 22 tháng 10, Liverpool chạm trán Atletico de Madrid của Torres tại Vicente Calderon trong một trận đấu Champions League, nhưng chấn thương kéo dài đã khiến anh không thể thi đấu. Chủ tịch Atletico, Enrique Cerezo, mời anh ngồi ghế VIP để xem trận nhưng anh từ chối để ở nhà điều trị chấn thương. Anh được bầu vào đội hình tiêu biểu mùa giải 2007-08 vào ngày 27 tháng 10.
Torres tái xuất với Liverpool khi vào sân ở phút 72 trong trận thắng 3-0 trước West Bromwich Albion. Anh nói rằng anh muốn quay trở lại Atletico cuối cùng, và nói: 'Tôi không biết liệu tôi có thể kết thúc sự nghiệp tại đó hay không, nhưng tôi muốn trở lại và hoàn thành những điều mà câu lạc bộ (Liverpool) không làm được'. Theo dự đoán của các bác sĩ, anh sẽ phải ngồi ngoài từ 2 đến 3 tuần sau chiến thắng 1-0 của Liverpool trước Marseille ở Champions League vào tháng 11 do chấn thương. Anh được bầu vào danh sách cầu thủ xuất sắc nhất của FIFA vào tháng 12, và cuối cùng anh đứng ở vị trí thứ 3 sau Cristiano Ronaldo và Lionel Messi. Torres trở lại vào ngày 3 tháng 1 năm 2009 khi vào sân từ ghế dự bị và ghi bàn trong chiến thắng 2-0 trước Preston North End; đây là bàn thắng đầu tiên của anh ở FA Cup. Anh ghi 2 bàn trễ cho Liverpool trong chiến thắng 2-0 trước Chelsea vào ngày 1 tháng 2. Mặc dù chỉ mới khoác áo Liverpool hơn 1 năm, Torres vẫn được chọn vào danh sách 50 cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại của Liverpool theo The Times, làm tăng niềm tin của anh với Liverpool chỉ trong một thời gian ngắn.
Torres đối đầu với đối thủ kình địch cũ Real Madrid vào ngày 10 tháng 3 trong trận đấu lượt đi vòng 16 đội Champions League, mặc dù vẫn chưa hồi phục hoàn toàn từ chấn thương mắt cá, anh đã phải tiêm một mũi giảm đau trước trận để có thể ra sân. Anh ghi bàn mở tỉ số của trận đấu, giúp Liverpool giành chiến thắng 4-0 và tổng tỉ số 5-0 để tiến vào tứ kết. 4 ngày sau, anh ra sân trong trận đấu gặp Manchester United tại Old Trafford và ghi bàn quân bình tỉ số 1-1, góp phần vào chiến thắng 4-1 của Liverpool. Torres ghi bàn thứ 50 cho Liverpool vào ngày 24 tháng 5 khi đón tiếp Tottenham Hotspur vào ngày cuối mùa giải 2008-09, đây là lần ra sân thứ 84 của anh. Sau đó, anh ký một hợp đồng mới với Liverpool, bao gồm cả việc gia hạn thêm một năm sau khi hợp đồng cũ hết hạn vào năm 2013.
Ngày 31 tháng 1 năm 2011, Liverpool đã chấp nhận lời đề nghị 50 triệu bảng từ Chelsea để chuyển Torres đến Stamford Bridge. Lý do khiến anh rời Liverpool là do anh cảm thấy câu lạc bộ không đủ khả năng để cạnh tranh ở cả quốc nội lẫn châu lục. Sự ra đi này đã khiến nhiều CĐV Liverpool tức giận, họ đốt áo đấu của anh và gọi anh là 'Judas' (Kẻ phản bội Chúa).
Chelsea
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2011, ngày cuối cùng của kỳ chuyển nhượng mùa đông, Fernando Torres đã đồng ý gia nhập câu lạc bộ Chelsea với mức giá 50 triệu bảng Anh (tương đương 58,5 triệu Euro), ký hợp đồng có thời hạn 5,5 năm. Anh trở thành cầu thủ đắt giá thứ tư trên thế giới (sau Cristiano Ronaldo, Zlatan Ibrahimović và Kaká). Tại đây, anh mặc áo số 9 và nhận mức lương 175.000 bảng Anh mỗi tuần.
Anh ra sân lần đầu tiên cho Chelsea trong trận đấu với Liverpool FC vào ngày 6 tháng 2 nhưng không ghi bàn và bị thay ra ở phút 66 bởi Salomon Kalou. Sau đó, anh thi đấu không hiệu quả. Đến ngày 23 tháng 4, Torres mới có bàn thắng kĩ thuật vào lưới West Ham United trong trận thắng 3-0. Đây cũng là bàn thắng đầu tiên anh ghi được trong màu áo Chelsea và chấm dứt mạch 13 trận liên tiếp không ghi bàn.
Mùa giải 2011-2012
Trước khi Giải Ngoại Hạng Anh khởi tranh, Torres nói với báo chí rằng: 'Tôi đã phục hồi hoàn toàn phong độ và tôi chưa quên cách ghi bàn'. Anh đã thực hiện lời nói và được đền đáp bằng bàn thắng vào lưới Manchester United.
Vào ngày 20 tháng 10 năm 2011, tại Champions League, Torres đã thi đấu xuất sắc và ghi cả hai bàn thắng đầu tiên cho Chelsea trong chiến thắng 5-0 trước câu lạc bộ Racing Genk của Bỉ. Anh dường như đã trở thành một phiên bản của Andriy Shevchenko, thi đấu như một tiền vệ tấn công thực thụ hơn là một tiền đạo dưới thời André Villas-Boas, thường xuyên kiến tạo hơn là ghi bàn.
Thời gian mà Torres không ghi bàn chỉ kết thúc sau khi HLV André Villas-Boas bị sa thải. Vào ngày 18 tháng 3, dưới sự chỉ đạo của HLV tạm quyền Roberto Di Matteo, Torres đã ghi cả hai bàn thắng của mình trong trận tứ kết Cúp FA gặp Leicester City với chiến thắng 5-2 cho Chelsea, giúp đội vào bán kết và đánh dấu hết chuỗi trận không ghi bàn dài của anh.
Vào ngày 24 tháng 4, trong trận bán kết lượt về UEFA Champions League, Chelsea bị Barcelona dẫn trước 2-1 và thi đấu với 10 người. Dù bị dồn ép, Torres đã xuất sắc lập công khi đối mặt với thủ môn Víctor Valdés, qua người để ghi bàn thắng quân bình 2-2 ở phút 90+2, chấm dứt hy vọng vào chung kết của Barcelona và đưa Chelsea vào trận chung kết. Năm ngày sau, Torres lần đầu tiên lập hat-trick cho Chelsea trong trận thắng 6-1 trước Queens Park Rangers, ba bàn thắng này chứng tỏ Torres đã trở lại phong độ.
Torres giành danh hiệu đầu tiên trong màu áo Chelsea khi đội đánh bại Liverpool trong trận chung kết Cúp FA với tỉ số 2-1. Vào ngày 20 tháng 5, anh cùng Chelsea vô địch UEFA Champions League sau khi hòa Bayern Munich 1-1 trong 120 phút và giành chiến thắng 4-3 trên chấm penalty.
Mùa giải 2012-2013
Sau khi Drogba rời Chelsea, Torres được xem là tiền đạo số 1 của đội.
Ngày 22 tháng 8, anh ghi bàn nâng tỷ số lên 3-2 sau đường chuyền của Ashley Cole trong chiến thắng 4-2 của Chelsea trước Reading. Ba ngày sau, anh kiếm được một quả penalty (giúp Eden Hazard ghi bàn mở tỷ số từ chấm 11m cho Chelsea) và ghi bàn thắng từ đường kiến tạo của Eden Hazard trong chiến thắng 2-0 trước Newcastle. Anh cũng ghi bàn trong trận derby Luân Đôn với Arsenal, gỡ hòa 1-1 trong trận gặp Norwich bằng pha đánh đầu.
Ngày 22 tháng 11, huấn luyện viên Di Matteo bị sa thải vì thành tích kém cỏi của Chelsea. Sau đó, Chelsea bổ nhiệm Rafael Benítez làm huấn luyện viên tạm quyền, hy vọng ông sẽ giúp Torres phục hồi phong độ.
Torres chấm dứt chuỗi trận không ghi bàn kéo dài hơn 11 giờ đồng hồ với hai bàn thắng vào lưới Nordsjælland trong Champions League ngày 5 tháng 12, giúp Chelsea đánh bại Nordsjælland 6-1. Ba ngày sau, anh lập cú đúp và góp mặt trong bàn thắng còn lại khi Chelsea đánh bại Sunderland 3-1. Anh cũng ghi bàn trong trận bán kết FIFA Club World Cup 2012 giúp Chelsea thắng Monterrey 3-1 vào ngày 13 tháng 12, nhưng Chelsea sau đó thua Corinthians 0-1 trong trận chung kết. Anh cũng góp mặt với một bàn trong chiến thắng 8-0 của Chelsea trước Aston Villa trong Premier League.
Torres tiếp tục tỏa sáng trong Europa League với những bàn thắng quan trọng. Ngày 15 tháng 5 năm 2013, anh ghi bàn mở tỉ số trong trận chung kết UEFA Europa League với Benfica. Chelsea giành chiến thắng 2-1 nhờ bàn thắng của Branislav Ivanovic, trở thành CLB Anh đầu tiên trong lịch sử vô địch cả UEFA Champions League và UEFA Europa League liên tiếp trong 2 mùa giải. Anh cũng là người hùng trong trận cuối cùng của mùa giải khi ghi bàn quyết định giúp Chelsea đánh bại Everton 2-1, về đích ở vị trí thứ 3 trong Premier League.
Mùa giải 2012-2013 là mùa giải xuất sắc nhất của Torres tại Chelsea, khi anh thi đấu nỗ lực và quyết tâm. Anh đã tham gia tổng cộng 61 trận đấu và ghi được 22 bàn thắng, trở thành một nhân vật quan trọng trong đội hình. Cùng với đồng đội Juan Mata, Torres đã đi vào lịch sử khi là hai cầu thủ thứ ba và thứ tư giành được bốn danh hiệu lớn như World Cup, EURO, UEFA Champions League và UEFA Europa League.
Mùa giải 2013-2014
Torres phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ Demba Ba và Samuel Eto'o cho vị trí tiền đạo trong mùa giải mới.
Trận đấu đầu tiên của mùa giải gặp Hull City, Torres được huấn luyện viên José Mourinho bổ nhiệm đá chính và ghi bàn mở tỷ số từ một quả phạt đền trong trận tranh Siêu cúp châu Âu giữa Chelsea và Bayern Munich, kết quả hòa 2-2 trước khi thua 5-4 trên luân lưu. Trong trận vòng 3 cúp Liên đoàn với Swindon Town, anh tỏa sáng với một bàn thắng và một đường kiến tạo, giúp Chelsea thắng 2-0.
Ngày 23 tháng 10, trong trận đấu Champions League, Torres kỉ niệm trận đấu thứ 100 tại Chelsea bằng cú đúp vào lưới Schalke 04, giúp Chelsea thắng 3-0 và dẫn đầu bảng E với 6 điểm, cùng hiệu số bàn thắng với Schalke nhưng vượt trội. Bàn thắng đầu tiên của anh tại Premier League trong mùa giải mới là bàn quyết định tỉ số 2-1 trước Manchester City ở phút 90, anh cũng có pha kiến tạo cho André Schürrle ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng mới.
Mùa giải 2014-2015
Vào ngày 29 tháng 8, Chelsea quyết định cho AC Milan mượn Fernando Torres trong 2 năm với giá 10 triệu bảng Anh. Ngày 30 tháng 8, Torres đã sang Ý để kiểm tra y tế và hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng.
Trận đầu tiên trong màu áo Milan, Torres vào sân từ ghế dự bị ở phút 76 trong trận đấu AC Milan gặp Juventus. Torres ghi bàn đầu tiên cho Milan trong trận gặp Empoli, giúp Milan rút ngắn tỷ số xuống 2-1. Trận đấu kết thúc với tỉ số hòa 2-2.
Trở về Atletico Madrid
Vào ngày 29 tháng 12 năm 2014, trang chủ chính thức của Atletico Madrid xác nhận đã mượn thành công tiền đạo Fernando Torres từ AC Milan từ bây giờ cho đến hết tháng 6 năm 2016.
Torres có trận ra mắt tại sân Vicente Calderón vào ngày 4 tháng 1 năm 2015, thu hút hơn 45.000 người theo dõi. Anh ra sân lần đầu cho Atlético vào ngày 7 tháng 1 năm 2015, trong trận lượt đi Copa del Rey gặp Real Madrid. Anh không ghi bàn và được thay ra sau 59 phút, nhưng Atlético vẫn thắng 2-0. Tám ngày sau ở trận lượt về, Torres ghi hai bàn - mỗi bàn đều trong những phút đầu hiệp, đánh dấu bàn thắng đầu tiên trong trận derby Madrid của anh. Torres cũng ghi bàn trong trận thua 2-3 trước Barcelona ở tứ kết, và cũng góp công trong trận đá luân lưu khi Atlético thua Bayer Leverkusen 2-3 trong vòng 16 đội UEFA Champions League vào ngày 17 tháng 3. Ngày 21 tháng 3, anh ghi bàn đầu tiên trong La Liga trong chiến thắng 2-0 trước Getafe.
Sau khi Mario Mandžukić ra đi, Torres đã chuyển từ số áo 19 sang số 9.
Vào ngày 6 tháng 2 năm 2016, Torres đã ghi bàn thứ 100 cho Atlético Madrid trong chiến thắng 3-1 trước Eibar trên sân nhà. Tháng sau đó, anh đã đánh dấu trận đấu thứ 300 của mình cho Atlético bằng một bàn thắng trong chiến thắng 3-1 trước Valencia.
Vào ngày 5 tháng 4 năm 2016, Torres đã ghi bàn mở tỷ số trong trận tứ kết lượt đi UEFA Champions League với Barcelona tại Camp Nou, trước khi bị đuổi khỏi sân sau mười phút với trận thua 2-1. Trong trận lượt về, Atlético đã thắng 2-0 và sau đó đánh bại Bayern Munich ở bán kết. Trong trận chung kết UEFA Champions League 2015-2016, khi Atlético bị Real Madrid dẫn trước 1-0, Torres đã kiếm được quả phạt đền (do Pepe phạm lỗi trong vòng cấm) nhưng Antoine Griezmann đá trúng xà ngang. Dù gỡ hòa 1-1 sau đó, Atlético vẫn thua 5-4 trong loạt luân lưu. Sau trận đấu, Torres đã không giấu nổi nước mắt vì không thể mang về chiếc cúp C1 với câu lạc bộ mình từ thuở ấu thơ.
Vào ngày 5 tháng 7 năm 2016, Torres gia hạn hợp đồng với Atlético Madrid thêm một năm. Vào tháng 2 năm 2017, anh ghi bàn thứ 100 tại La Liga khi lập cú đúp vào lưới Leganés. Ngày 4 tháng 7 năm 2017, Torres lại gia hạn hợp đồng thêm một năm nữa với Atlético Madrid.
Torres vào sân thay người vào phút 90 trong trận đánh bại Marseille 3-0 tại sân Parc Olympique Lyonnais trong trận chung kết UEFA Europa League 2018 ngày 16 tháng 5 năm 2018. Anh ghi hai bàn trong trận chung kết với Atlético trong trận hòa 2-2 trước Eibar để giành chức vô địch La Liga.
Sagan Tosu và giã từ sự nghiệp
Torres ký hợp đồng với câu lạc bộ J-League 1 Sagan Tosu vào ngày 10 tháng 7 năm 2018. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 22 tháng 8 trong trận King Cup với chiến thắng ở vòng bốn trước Vissel Kobe. Anh ghi một bàn và hai đường kiến tạo trong chiến thắng 3-0 trước Gamba Osaka. Vào ngày 21 tháng 6 năm 2019, Torres thông báo giã từ sự nghiệp bóng đá. Trận đấu cuối cùng trong sự nghiệp của anh là trước Vissel Kobe vào ngày 23 tháng 8 năm 2019, khi anh đối đầu với các đồng đội cũ Andrés Iniesta và David Villa. Sagan Tosu thua 1-6.
Thi đấu cho đội tuyển quốc gia
Vào tháng 2 năm 2001, Torres vô địch giải Algarve Tournament cùng đội tuyển U-16 Tây Ban Nha. Đội U-16 tham dự giải U16 châu Âu vào năm 2001 vào tháng 5, và cũng vô địch, với bàn thắng duy nhất trong trận chung kết của Torres. Anh cũng giành ngôi vua phá lưới và là cầu thủ xuất sắc nhất giải. Vào tháng 11 năm 2001, Torres tham gia cùng Tây Ban Nha ở giải U-17 châu Âu, nhưng đội không thể vượt qua vòng bảng. Vào tháng 7 năm 2002, anh vô địch giải U-19 châu Âu. Anh cũng là vua phá lưới và được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất giải, cũng như ghi bàn duy nhất trong trận chung kết.
Euro 2004
Torres ra sân lần đầu cho đội tuyển Tây Ban Nha vào ngày 6 tháng 9 năm 2003 đối đầu với Bồ Đào Nha. Anh ghi bàn đầu tiên cho đội tuyển trong trận gặp Ý vào ngày 28 tháng 4 năm 2004. Torres tham gia đội tuyển Tây Ban Nha tại Euro 2004. Sau khi vào sân trong 2 trận đầu tiên của vòng bảng, anh cũng ra sân trong trận quyết định với Bồ Đào Nha, nơi Tây Ban Nha thua 0-1. Anh chơi đến hết hiệp 2 và có một cú sút đập xà ngang.
World Cup 2006
Torres ghi 7 bàn trong 11 trận ra sân ở vòng loại World Cup 2006, là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất cho Tây Ban Nha ở vòng loại. Anh có cú hattrick đầu tiên trong đội tuyển khi đối đầu với San Marino. Trận đấu đầu tiên của Torres tại World Cup, anh ghi bàn cuối trong chiến thắng 4-0 trước Ukraine bằng một cú volley. Trận thứ hai, Torres lập cú đúp trước Tunisia với bàn mở tỷ số ở phút 76 và một cú đá phạt đền ở phút 90. Với 3 bàn thắng, anh kết thúc giải là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất cho Tây Ban Nha, cùng với David Villa.
Euro 2008
Torres được triệu tập vào đội tuyển Tây Ban Nha cho Euro 2008, nơi anh tạo cơ hội cho Villa ghi bàn đầu tiên cho Tây Ban Nha khi gặp đội tuyển Nga. Torres thể hiện sự bực mình khi không bắt tay với huấn luyện viên Luis Aragones sau khi bị thay ra. Anh sau đó giải thích rằng sự bực tức đến từ bản thân anh. Anh ghi bàn đầu tiên tại giải trong trận đấu với Thụy Điển. Torres ghi bàn quyết định và được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất trong chiến thắng 1-0 trước Đức ở trận chung kết. Anh nói, 'Đó là một giấc mơ trở thành hiện thực. Đây là danh hiệu đầu tiên của tôi và tôi mong muốn có thêm nhiều hơn nữa. Vô địch Euro, nó như vô địch World Cup. Chúng tôi đã xem trận chung kết qua màn hình, nhưng hôm nay chúng tôi ở đây và chúng tôi vô địch. Nhiệm vụ của tôi là ghi bàn. Tôi mong muốn giành nhiều danh hiệu hơn nữa và trở thành cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu và thế giới.' Anh được bầu vào đội hình hay nhất cùng với David Villa.
World Cup 2010
Torres chơi trận đấu thứ 60 cho Đội tuyển Tây Ban Nha trong vòng loại World Cup 2010 sau khi đánh bại Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 28 tháng 3 năm 2009, trở thành cầu thủ trẻ nhất đạt kỷ lục này. Mặc dù bị chấn thương nhiều trong mùa giải đó, anh vẫn ghi bàn trong trận đấu với Chile sau khi thay thế Villa ở hiệp hai. Anh tham dự FIFA Confederations Cup 2009 và ghi cú hattrick trong 17 phút đầu tiên gặp New Zealand vào ngày 14 tháng 6, đồng thời là cú hattrick nhanh nhất của một cầu thủ Tây Ban Nha. Anh cũng thi đấu trong chiến thắng 2-0 trước Mỹ và trong trận tranh giải 3, khi Tây Ban Nha thắng 3-2 sau hiệp phụ.
Sau đó, từ World Cup 2010 đến nay, Torres chỉ ghi được 6 bàn cho Đội tuyển, 5 bàn tại World Cup và một trong trận giao hữu với Mỹ bằng một cú đánh đầu qua Tim Howard.
Euro 2012 & Confederations Cup 2013
Anh được triệu tập vào danh sách 23 cầu thủ Đội tuyển Tây Ban Nha tham dự Euro 2012. Ngày 14/6/2012, anh lập cú đúp trong chiến thắng 4-0 trước CH Ireland. Ngày 1/7/2012, anh ghi bàn và kiến tạo trong trận chung kết Euro, giúp Tây Ban Nha đánh bại Ý 4-0 để giành chức vô địch, cũng như giành danh hiệu Vua phá lưới của Euro 2012.
Sau Euro 2012, Torres đã sa sút phong độ và không được triệu tập vào Đội tuyển Tây Ban Nha trong một thời gian dài.
Ngày 28 tháng 5 năm 2013, anh được gọi vào danh sách 26 cầu thủ tham dự Confederations Cup 2013 nhờ phong độ ổn định tại Chelsea.
Ngay lập tức, Torres tỏa sáng ở đội tuyển quốc gia với 4 bàn vào lưới Tahiti, góp công lớn vào chiến thắng 10-0 của Tây Ban Nha. Sau đó 3 ngày, anh ghi bàn trong trận đội tuyển Tây Ban Nha đánh bại Nigeria 3-0. Với tổng cộng 5 bàn thắng, Torres dẫn đầu danh sách ghi bàn tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2013. Mặc dù Tây Ban Nha không vô địch Confed Cup 2013 sau khi thua Brasil 3-0 trong trận chung kết, Torres vẫn nhận được Chiếc giày vàng.
World Cup 2014
Tại World Cup 2014, Torres đã ghi bàn vào lưới Úc, giúp Tây Ban Nha đánh bại đối thủ với tỷ số 3-0. Tuy nhiên, sau đó Tây Ban Nha đã dừng bước ở vòng bảng sau khi thua Hà Lan (1-5) và Chi Lê (2-0), kết thúc ở vị trí thứ ba. Đây cũng là giải đấu cuối cùng mà Torres thi đấu cho Đội tuyển quốc gia, đánh dấu sự kết thúc của một thời vàng son không chỉ của anh mà của cả Đội tuyển Tây Ban Nha.
Cuộc sống cá nhân
Ba mẹ của Torres là José Torres và Flori Sanz, anh còn có hai người anh chị ruột là Israel (1977) và María Paz (1976). Torres kết hôn với Olalla Domínguez Liste vào ngày 27 tháng 5 năm 2009 tại El Escorial, Madrid, mối quan hệ của họ bắt đầu từ năm 2001. Tháng 2 năm 2009, vợ anh đã mang thai và sau đó họ chào đón một bé gái, Nora Torres Domínguez, ngày 8 tháng 7 năm 2009 tại bệnh viện La Rosaleda Compostelan, ở Santiago de Compostella.
Vào năm 2009, có thông tin cho biết Torres sở hữu tài sản cá nhân trị giá khoảng 14 triệu bảng Anh. Anh xuất hiện trong video 'Ya Nada Volverá A Ser Como Antes' của ban nhạc rock Tây Ban Nha El Canto del Loco. Dani Martin, ca sĩ của ban nhạc này, có mối quan hệ thân thiết với Torres. Anh cũng từng tham gia diễn xuất trong bộ phim hài Torrente 3 vào năm 2005. Biệt danh của Torres là 'mụn' vì gương mặt của anh có khá nhiều mụn.
Ngày 14 tháng 8 năm 2009, Torres phát hành tự truyện Torres: Elnino: Câu chuyện của tôi, trong đó anh chia sẻ những tâm sự và cảm nhận của mình với độc giả.
Torres đam mê chơi game video, đặc biệt là các trò chơi trên PlayStation 3. Anh có 3 máy PS3 ở ba tầng của ngôi nhà để có thể thỏa sức chơi game khi không tham gia vào sân cỏ vì chấn thương. Anh yêu thích các trò chơi như PES và GTA.
Anh cũng có những hình xăm như nhiều cầu thủ khác:
- Hình xăm đầu tiên trên ống chân là ba chữ số La Mã, VII VII MMI (7 7 2001), ngày mà anh và Domínguez bắt đầu mối quan hệ.
- Hình xăm thứ hai trên bên tay phải là số 9, số áo yêu thích của anh. Anh mặc số 9 khi chơi cho Đội tuyển Tây Ban Nha, Atlético de Madrid, Liverpool, Chelsea và Milan.
- Hình xăm thứ ba là một cụm từ viết bằng hệ thống ký tự Tengwar.
- Đến ngày 11 tháng 8 năm 2019.
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải quốc nội | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Châu Âu | Khác | Tổng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giải Ngoại hạng | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Atlético Madrid | 2000–01 | Segunda División | 4 | 1 | 2 | 0 | — | — | — | 6 | 1 | |||
2001–02 | 36 | 6 | 1 | 1 | — | — | — | 37 | 7 | |||||
2002–03 | La Liga | 29 | 13 | 2 | 1 | — | — | — | 31 | 14 | ||||
2003–04 | 35 | 19 | 5 | 2 | — | — | — | 40 | 21 | |||||
2004–05 | 38 | 16 | 6 | 2 | — | 5 | 2 | — | 49 | 20 | ||||
2005–06 | 36 | 13 | 4 | 0 | — | — | — | 40 | 13 | |||||
2006–07 | 36 | 14 | 4 | 1 | — | — | — | 40 | 15 | |||||
Tổng | 214 | 82 | 24 | 7 | — | 5 | 2 | — | 243 | 91 | ||||
Liverpool | 2007–08 | Premier League | 33 | 24 | 1 | 0 | 1 | 3 | 11 | 6 | — | 46 | 33 | |
2008–09 | 24 | 14 | 3 | 1 | 2 | 0 | 9 | 2 | — | 38 | 17 | |||
2009–10 | 22 | 18 | 2 | 0 | 0 | 0 | 8 | 4 | — | 32 | 22 | |||
2010–11 | 23 | 9 | 1 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | — | 26 | 9 | |||
Tổng | 102 | 65 | 7 | 1 | 3 | 3 | 30 | 12 | — | 142 | 81 | |||
Chelsea | 2010–11 | Premier League | 14 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 4 | 0 | 0 | 0 | 18 | 1 |
2011–12 | 32 | 6 | 6 | 2 | 1 | 0 | 10 | 3 | — | 49 | 11 | |||
2012–13 | 36 | 8 | 5 | 1 | 4 | 2 | 16 | 9 | 3 | 2 | 64 | 22 | ||
2013–14 | 28 | 5 | 2 | 0 | 1 | 1 | 10 | 5 | 0 | 0 | 41 | 11 | ||
Tổng | 110 | 20 | 13 | 3 | 6 | 3 | 40 | 17 | 3 | 2 | 172 | 45 | ||
Milan (mượn) | 2014–15 | Serie A | 10 | 1 | — | — | — | — | 10 | 1 | ||||
Atlético Madrid (mượn) | 2014–15 | La Liga | 19 | 3 | 4 | 3 | — | 3 | 0 | — | 26 | 6 | ||
2015–16 | 30 | 11 | 2 | 0 | — | 11 | 1 | — | 43 | 12 | ||||
Atlético Madrid | 2016–17 | 31 | 8 | 5 | 1 | — | 9 | 1 | — | 45 | 10 | |||
2017–18 | 27 | 5 | 6 | 3 | — | 12 | 2 | — | 45 | 10 | ||||
Tổng | 107 | 27 | 17 | 7 | — | 36 | 4 | — | 160 | 38 | ||||
Sagan Tosu | 2018 | J1 League | 17 | 3 | 2 | 1 | 0 | 0 | — | — | 19 | 4 | ||
2019 | 18 | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | — | — | 20 | 2 | ||||
Tổng cộng | 35 | 5 | 2 | 1 | 2 | 0 | — | — | 39 | 6 | ||||
Tổng cộng sự nghiệp | 578 | 200 | 64 | 19 | 11 | 6 | 111 | 35 | 3 | 2 | 767 |
Đội tuyển quốc gia
Tính đến ngày 23 tháng 6 năm 2014.
Đội tuyển quốc gia | Mùa giải | Giao hữu | Giải đấu | Tổng cộng | |||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Tây Ban Nha | 2003 | 1 | 0 | 2 | 0 | 3 | 0 |
2004 | 6 | 1 | 5 | 0 | 11 | 1 | |
2005 | 3 | 1 | 9 | 7 | 12 | 8 | |
2006 | 6 | 1 | 7 | 4 | 13 | 5 | |
2007 | 2 | 0 | 4 | 1 | 6 | 1 | |
2008 | 6 | 1 | 7 | 2 | 13 | 3 | |
2009 | 3 | 2 | 10 | 3 | 13 | 5 | |
2010 | 3 | 1 | 8 | 2 | 11 | 3 | |
2011 | 7 | 1 | 2 | 0 | 9 | 1 | |
2012 | 4 | 1 | 6 | 3 | 10 | 4 | |
2013 | 1 | 0 | 4 | 5 | 5 | 5 | |
2014 | 1 | 1 | 3 | 1 | 4 | 2 | |
Tổng cộng | 43 | 10 | 67 | 28 | 110 | 38 |
Bàn thắng quốc tế
Tính đến ngày 23 tháng 6 năm 2014.
Đội tuyển quốc gia | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|
# | Thời gian | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
1. | 28 tháng 4 năm 2004 | Sân vận động Luigi Ferraris, Genoa, Ý | Ý | 0–1 | 1–1 | Giao hữu quốc tế |
2. | 10 tháng 2 năm 2005 | Sân vận động Mediterraneo, Almería, Tây Ban Nha | San Marino | 2–0 | 5–0 | Vòng loại World Cup 2006 |
3. | 26 tháng 3 năm 2005 | Sân vận động El Helmántico, Salamanca, Tây Ban Nha | Trung Quốc | 1–0 | 3–0 | Giao hữu quốc tế |
4. | 8 tháng 10 năm 2005 | Sân vận động Vua Baudouin, Brussels, Bỉ | Bỉ | 0–1 | 0–2 | Vòng loại World Cup 2006 |
5. | 0–2 | |||||
6. | 12 tháng 10 năm 2005 | Sân vận động Olimpico, Rome, Ý | San Marino | 0–2 | 0–6 | Vòng loại World Cup 2006 |
7. | 0–5 | |||||
8. | 0–6 | |||||
9. | 12 tháng 11 năm 2005 | Sân vận động Vicente Calderón, Madrid, Tây Ban Nha | Slovakia | 3–1 | 5–1 | Vòng loại World Cup 2006 |
10. | 7 tháng 6, 2006 | Stade de Geneve, Geneva, Thụy Sĩ | Croatia | 2–1 | 2–1 | Giao hữu quốc tế |
11. | 14 tháng 6, 2006 | Zentralstadion, Leipzig, Đức | Ukraina | 4–0 | 4–0 | World Cup 2006 |
12. | 19 tháng 6, 2006 | Mercedes-Benz Arena, Stuttgart, Đức | Tunisia | 2–1 | 3–1 | World Cup 2006 |
13. | 3–1 | |||||
14. | 2 tháng 9, 2006 | Sân vận động Nuevo Vivero, Badajoz, Tây Ban Nha | Liechtenstein | 1–0 | 4–0 | Vòng loại Euro 2008 |
15. | 12 tháng 9, 2007 | Estadio Carlos Tartiere, Oviedo, Tây Ban Nha | Latvia | 2–0 | 2–0 | Vòng loại Euro 2008 |
16. | 14 tháng 6 năm 2008 | Tivoli Neu, Innsbruck, Áo | Thụy Điển | 0–1 | 1–2 | Euro 2008 |
17. | 29 tháng 6 năm 2008 | Sân vận động Ernst Happel, Viên, Áo | Đức | 0–1 | 0–1 | Euro 2008 |
18. | 19 tháng 11 năm 2008 | Sân vận động El Madrigal, Villarreal, Tây Ban Nha | Chile | 2–0 | 3–0 | Giao hữu quốc tế |
19. | 9 tháng 6 năm 2009 | Sân vận động Tofik Bakhramov, Baku, Azerbaijan | Azerbaijan | 0–6 | 0–6 | Giao hữu quốc tế |
20. | 14 tháng 6 năm 2009 | Sân vận động Royal Bafokeng, Rustenburg, Nam Phi | New Zealand | 0–1 | 0–5 | Confed Cup 2009 |
21. | 0–2 | |||||
22. | 0–3 | |||||
23. | 12 tháng 8 năm 2009 | Philip II Arena, Skopje, Macedonia | Bắc Macedonia | 2–1 | 2–3 | Giao hữu quốc tế |
24. | 8 tháng 6 năm 2010 | Sân vận động La Condomina, Murcia, Tây Ban Nha | Ba Lan | 5–0 | 6–0 | Giao hữu quốc tế |
25. | 3 tháng 9 năm 2010 | Sân vận động Rheinpark, Vaduz, Liechtenstein | Liechtenstein | 0–1 | 0–4 | Vòng loại Euro 2012 |
26. | 0–3 | |||||
27. | 4 tháng 6 năm 2011 | Sân vận động Gillette, Foxborough, Hoa Kỳ | Hoa Kỳ | 0–4 | 0–4 | Giao hữu quốc tế |
28. | 30 tháng 5 năm 2012 | Stade de Suisse, Bern, Thụy Sĩ | Hàn Quốc | 1–0 | 4–1 | Giao hữu quốc tế |
29. | 14 tháng 6 năm 2012 | PGE Arena, Gdańsk, Ba Lan | Cộng hòa Ireland | 1–0 | 4–0 | Euro 2012 |
30. | 3–0 | |||||
31. | 1 tháng 7 năm 2012 | Sân vận động Olympic, Kiev, Ukraina | Ý | 3–0 | 4–0 | Euro 2012 |
32. | 20 tháng 6 năm 2013 | Sân vận động Maracanã, Rio de Janeiro, Brasil | Tahiti | 1–0 | 10–0 | Confed Cup 2013 |
33. | 3–0 | |||||
34. | 6–0 | |||||
35. | 9–0 | |||||
36. | 23 tháng 6 năm 2013 | Sân vận động Castelão, Fortaleza, Brasil | Nigeria | 0–2 | 0–3 | Confed Cup 2013 |
37. | 30 tháng 5 năm 2014 | Sân vận động Ramón Sánchez Pizjuán, Sevilla, Tây Ban Nha | Bolivia | 1–0 | 2–0 | Giao hữu quốc tế |
38. | 23 tháng 6 năm 2014 | Arena da Baixada, Curitiba, Brasil | Úc | 0–2 | 0–3 | World Cup 2014 |
Danh hiệu
Kỷ lục
Ở mùa giải 2012–13 thi đấu cho Chelsea: Fernando Torres đã thiết lập kỷ lục ghi bàn ở tất cả các giải đấu mà anh tham gia bao gồm: Community Shield, Premier League, FIFA Club World Cup, FA Cup, EFL Cup (Cúp Liên đoàn Anh), UEFA Champions League và UEFA Europa League.
Atlético Madrid
- UEFA Europa League: 2017–18
- Segunda División: 2001–02
- UEFA Champions League á quân: 2015–16
Chelsea
- Cúp FA: 2011–12
- UEFA Champions League: 2011–12
- UEFA Europa League: 2012–13
- Á quân FIFA Club World Cup: 2012
U-16 Tây Ban Nha
- Giải vô địch bóng đá U-16 châu Âu: 2001
U-19 Tây Ban Nha
- Giải vô địch bóng đá U-19 châu Âu: 2002
Tây Ban Nha
- World Cup FIFA: 2010
- UEFA European Championship: 2008, 2012
- Á quân FIFA Confederations Cup: 2013; Hạng ba: 2009
Cá nhân
- Vua phá lưới Cúp Nike: 1999
- Cầu thủ xuất sắc nhất Algarve Tournament: 2001
- Vua phá lưới Algarve Tournament: 2001
- Cầu thủ xuất sắc nhất Giải vô địch bóng đá U16 châu Âu: 2001
- Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá U16 châu Âu: 2001
- Cầu thủ xuất sắc nhất Giải vô địch bóng đá U19 châu Âu: 2002
- Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá U19 châu Âu: 2002
- Vua phá lưới của Liverpool: 2008, 2010
- Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Liverpool: 2008
- FIFPro World XI: 2008, 2009
- Đội hình Premier League xuất sắc nhất năm của PFA: 2008, 2009
- Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Premier League: tháng 2 năm 2008, tháng 9 năm 2009
- Bàn thắng của tháng giải Premier League: tháng 4 năm 2009, tháng 3 năm 2010
- Quả bóng đồng châu Âu 2008, cầu thủ xuất sắc nhất thứ 3 thế giới sau Ronaldo và Messi
- Vua phá lưới Euro: 2012
- Giải thưởng Marca Leyenda: 2012
- Chiếc giày bạc Confederations Cup: 2009
- Chiếc giày vàng Confederations Cup: 2013
- Đội hình xuất sắc nhất giải Confederations Cup: 2009, 2013
- Đội hình xuất sắc nhất Euro 2008
- Đội hình xuất sắc nhất năm của UEFA: 2008, 2009
- Cầu thủ xuất sắc nhất tuần của Goal.com: Tuần thứ 210
Ghi chú
- A. ^ Cột "Giải" được cấu thành bởi số lần ra sân và bàn thắng (kể cả những lần vào thay người) ở La Liga, Segunda División và giải Ngoại hạng Anh.