Tên đầy đủ | Футбольный клуб Зенит (Câu lạc bộ bóng đá Zenit) |
---|---|
Biệt danh | Lvy (Lions) Sine-Belo-Golubye (Xanh-Trắng-Xanh da trời) Zenitchiki (The Anti-aircraft Gunners) |
Thành lập | 25 tháng 5 năm 1925; 99 năm trước |
Sân | Sân vận động Krestovsky |
Sức chứa | 67.800 |
Chủ sở hữu | Gazprom |
Chủ tịch | Alexander Medvedev |
Huấn luyện viên trưởng | Sergei Semak |
Giải đấu | Giải bóng đá Ngoại hạng Nga |
2022-23 | Giải bóng đá Ngoại hạng Nga, thứ 1 |
Trang web | Trang web của câu lạc bộ |
Câu lạc bộ bóng đá Zenit (tiếng Anh: Football Club Zenit; tiếng Nga: Футбольный клуб «Зенит» phát âm [fʊdˈbolʲnɨj ˈkɫup zʲɪˈnʲit]), còn được biết đến với tên gọi Zenit Sankt Peterburg hoặc đơn giản là Zenit, là một câu lạc bộ bóng đá Nga đến từ thành phố Sankt-Peterburg. Được thành lập vào năm 1925 (hoặc vào năm 1914, theo một số nguồn tin của Nga), câu lạc bộ chơi ở Giải bóng đá Ngoại hạng Nga. Zenit vô địch Giải bóng đá Ngoại hạng Nga vào mùa giải 2007, 2010, 2011-12, 2014-15 và 2018-19, cũng như vô địch Cúp UEFA 2007-08 và Siêu cúp châu Âu 2008. Câu lạc bộ được sở hữu và tài trợ bởi tập đoàn Gazprom.
Lịch sử
Thời Spalletti
Luciano Spalletti đã ký hợp đồng với Zenit vào tháng 12 năm 2009, cùng với các trợ lý Daniele Baldini, Marco Domenichini và Alberto Bartali cũng tham gia vào thành phần ban huấn luyện của câu lạc bộ nước Nga.
Zenit đã giành cúp quốc gia Nga vào ngày 16 tháng 5 năm 2010 sau khi đánh bại Sibir Novosibirsk trong trận chung kết (trước đó đánh bại Volga Tver trong trận tứ kết và Amkar Perm trong trận bán kết). Sau 16 trận tại giải vô địch quốc gia Nga năm 2010, với 12 trận thắng và 4 trận hòa, Zenit đã giành được 40 điểm, lập kỷ lục mới tại giải Premier League của Nga. Trong kỳ chuyển nhượng mùa hè năm 2010, Spalletti đã mang về câu lạc bộ những bản hợp đồng đầu tiên của mình như tiền đạo Aleksandr Bukharov và tiền vệ Sergei Semak từ Rubin Kazan, hậu vệ Aleksandar Luković từ Udinese và Bruno Alves từ Porto.
Vào ngày 25 tháng 8 năm 2010, Zenit có thua trận đầu tiên dưới thời Spalletti trước đội Auxerre của Pháp và không thành công trong việc cạnh tranh nhóm dự Champions League và phải tham dự Europa League. Ngày 3 tháng 10, Zenit đánh bại Spartak Nalchik để lập kỷ lục mới tại giải Premier League của Nga chuỗi các trận đấu liên tiếp bất bại, với 21 trận kể từ khi bắt đầu mùa giải. Tuy nhiên, vào ngày 27 tháng 10, Zenit đã nhận thất bại đầu tiên của mùa giải này dưới tay của đối thủ Spartak Moscow khi, chỉ còn 7 vòng đấu nữa là kết thúc giải vô địch qốc gia, qua đó đánh mất thành tích bất khả chiến bại. Vào ngày 14 tháng 11, Zenit đánh bại Rostov để giành danh hiệu vô địch trước hai trận đấu khi mùa giải kết thúc.
Zenit cũng đã vượt qua vòng đấu loại trực tiếp của Europa League 2010-11, sau đó đánh bại đội bóng của Thụy Sĩ, Young Boys ở vòng 1/16. Vào ngày 6 tháng 3 năm 2011, Zenit giành chiến thắng trước CSKA Moscow tại Siêu cúp Nga, danh hiệu thứ ba của đội bóng nước Nga dưới thời Spalletti. Tuy nhiên, vào ngày 17 tháng 3, Zenit bị loại khỏi Europa League, sau khi để thua đội bóng đến từ Hà Lan, Twente với tổng tỉ số 2-3 tại tứ kết.
Trong Champions Cup 2011-12, Zenit đã bắt đầu giai đoạn nhóm vào nhóm G cùng với Porto, Shakhtar Donetsk và APOEL. Vào ngày 6 tháng 12 năm 2011, đội đã hoàn thành vòng bảng ở vị trí thứ hai và lần đầu tiên trong lịch sử của câu lạc bộ đủ điều kiện tham dự vòng knockout của Champions League. Ở vòng 16, Zenit đối đầu với Benfica của Bồ Đào Nha, mặc dù giành chiến thắng 3-2 ở sân nhà nhờ hai bàn thắng của Roman Shirokov và một của Sergei Semak. Tuy nhiên, ở trận lượt về ở Lisbon, Zenit thua 0-2 và đã bị loại khỏi giải đấu.
Vào tháng 4 năm 2012, Zenit giành chức vô địch Nga lần 2 sau khi đánh bại Dynamo Moscow.
Thời Villas-Boas
Sau chuỗi kết quả thất vọng ở cả Champions League và giải Premier League, Spalletti bị sa thải vào ngày 11 tháng 3 năm 2014. Một tuần sau, câu lạc bộ thông báo ký hợp đồng hai năm với André Villas-Boas, người vừa bị Tottenham Hotspur sa thải. Tại Europa League mùa giải 2014-15, Zenit bị loại bởi Sevilla ở tứ kết. Tháng 5 năm 2015, Zenit giành chức vô địch quốc gia Nga đầu tiên dưới thời Villas-Boas đúng dịp kỷ niệm 90 năm thành lập câu lạc bộ. Zenit sau đó đánh bại Lokomotiv Moscow tại Siêu Cúp Nga năm 2015 sau khi hòa 1-1 và thắng 4-2 trên chấm phạt đền.
Cuối năm 2015, Villas-Boas thông báo sẽ rời câu lạc bộ sau khi mùa giải 2015-16 kết thúc. Tại Champions League 2015-16, Zenit dẫn đầu bảng đấu có Valencia, Lyon và Gent, thắng năm trong sáu trận vòng bảng. Tuy nhiên, họ bị loại ở vòng 16 sau khi thua Benfica.
Ngày 24 tháng 5 năm 2016, Villas-Boas rời câu lạc bộ, ngay sau đó Mircea Lucescu được chỉ định làm HLV mới của Zenit.
Thời Lucescu
Vào tháng 7 năm 2016, Zenit giành Siêu cúp Nga sau khi vượt qua CSKA Moscow với tỷ số 1-0.
Tại Europa League 2016-17, Zenit nằm ở bảng D cùng Maccabi Tel-Aviv, AZ Alkmaar và Dundalk. Ngày 8 tháng 12 năm 2016, họ đứng đầu bảng và tiến vào vòng knockout. Ở vòng 1/32, Zenit đối đầu với Anderlecht của Bỉ và bị loại bởi luật bàn thắng sân khách sau tổng tỉ số 3-3. Màn trình diễn sau kỳ nghỉ đông quá thất vọng khiến họ đứng thứ ba tại giải quốc gia và lỡ mất cơ hội dự Champions League hai năm liên tiếp. Zenit cũng bị loại khỏi Cúp quốc gia Nga ở vòng 1/16 sau khi thua FC Anzhi Makhachkala 0-4. Mùa giải đầu tiên và cuối cùng của Mircea Lucescu là một thất bại lớn.
Biểu trưng
Lịch sử
- Từ 1925 đến 1936, biểu tượng SWD 'Stalinets' gồm ba dải đứng và chữ 'Stalinets', với dải trung tâm màu trắng và hai dải ngoài màu xanh da trời, là logo đầu tiên của Zenit.
- Năm 1940, logo được thiết kế lại theo dạng mũi tên zenitovskih, vẫn giữ tông màu trắng và xanh da trời. Chữ 't' cuối viết như từ Latin 'm'.
- Giai đoạn 1978-1989, biểu tượng 'Zenith' gọn hơn, với chữ Z theo bảng chữ Cyrillic của Nga nhỏ gọn làm đuôi và chữ 't' là đỉnh của mũi tên. Từ 'Zenith' và mũi tên có màu xanh da trời, nền trắng hoặc ngược lại.
- Từ 1989 đến 1991, logo được thiết kế lại với màu chữ xanh tím than, nền trắng, thêm chữ 'FC' và 'Leningradsky' cùng hình quả bóng. Phía trên là tàu vàng Admiralty, bên dưới mũi tên là hình quả bóng.
- Từ 1991 đến 1996, các chi tiết bao quanh và quả bóng bị loại bỏ, giữ lại mũi tên zenitovskih.
- Từ 1998 đến 2013, Zenit quay về logo giai đoạn 1989-1991, nhưng được thiết kế lại với hai tông màu xanh và trắng.
- Năm 2013, logo loại bỏ chữ 'FC' và 'St. Petersburg', vòng tròn, quả bóng và chiếc thuyền. Mũi tên đơn giản hóa, chữ thường được kết nối dọc cạnh trên và ranh giới trên của mũi tên, thêm năm thành lập câu lạc bộ (1925) ở bên phải.
- Năm 2015, sau khi giành chức vô địch quốc gia lần thứ 5, Zenit thêm một ngôi sao phía trên logo.
Vụ bê bối với tờ Daily Mail
Trong một vụ việc đang thu hút sự chú ý trên mạng xã hội Twitter, tài khoản chính thức của câu lạc bộ Zenit St Petersburg đã phản ứng trực tiếp với Daily Mail sau khi tờ báo Anh này đăng một bài viết về 10 huy hiệu câu lạc bộ xấu nhất mọi thời đại, trong đó có huy hiệu của đội chủ sân Petrovsky.
Theo đánh giá của tờ báo này, huy hiệu của Zenit 'chỉ là tên của CLB viết bằng bảng chữ cái tiếng Nga'. Daily Mail cũng liệt kê 9 huy hiệu khác trong danh sách những huy hiệu xấu nhất mọi thời đại của họ, bao gồm New York Red Bulls (Mỹ), Paços de Ferreira (Bồ Đào Nha), Newell’s Old Boys (Argentina), Wolfsburg (Đức), Bohemians 1905 (Cộng hòa Séc), Napoli (Italia), Hamburg (Đức), Valenciennes (Pháp) và Melbourne Victory (Australia).
Không hài lòng với đánh giá này, tài khoản chính thức của Zenit đã phản đối Daily Mail bằng hình ảnh của 10 huy hiệu báo chí xấu nhất mọi thời đại, là logo của Daily Mail lặp lại 10 lần. Dòng tweet này đã thu hút hơn 30.000 lượt thích và chia sẻ, gấp gần 8 lần con số của dòng tweet từ Daily Mail.
Tài trợ
Nhà tài trợ của Zenit
|
Sau thời kỳ sau chiến tranh, cho đến năm 1990, câu lạc bộ được điều hành bởi các nhà máy Lomo (Gomza). Sau đó, các doanh nghiệp thành phố Leningrad liên quan đến câu lạc bộ bóng đá Zenit đã được thành lập. Vào tháng 8 năm 1993, các cổ đông của câu lạc bộ Zenit bao gồm công ty thép xây dựng ХХ трест (chiếm 80% cổ phần) và thành phố St. Petersburg (chiếm 20%). Trong mùa giải 1994-1995, nhà tài trợ chính của câu lạc bộ là công ty sản xuất bia Балтика với sự tham gia của tập đoàn ХХ трест. Năm 2002, một phần lớn cổ phần đã được mua bởi Công ty Cổ phần Банкирский дом tại St. Petersburg. Vào mùa đông 2005/06, quyền sở hữu chính thức của câu lạc bộ đã chuyển sang tay nhà tài trợ Gazprom, tập đoàn dầu khí lớn nhất Nga.
Từ năm 1998 đến 2008, nhà tài trợ của Zenit là công ty truyền thông di động Северо-Западный GSM (sau này là MegaFon). Vào tháng 10 năm 2012, MegaFon trở lại là nhà tài trợ của câu lạc bộ cùng với các công ty con và thương hiệu của Gazprom như Speech, SOGAZ và Sibur.
Vào mùa thu năm 2013, câu lạc bộ bắt đầu hợp tác với loạt phim hoạt hình Smeshariki và thương hiệu phim nổi tiếng 20th Century Fox để sản xuất loạt phim hoạt hình The Simpsons. Vào tháng 7 năm 2014, Zenit đã ký kết một thỏa thuận hợp tác với nhà tài trợ vận chuyển hàng không. Đối tác hiện tại cao cấp của câu lạc bộ bao gồm nhà tài trợ áo đấu Joma, cùng các đối tác chính thức khác như Nissan, OBI, Rostelecom và Onega Shipping.
Sân nhà
Sân vận động cũ của câu lạc bộ Zenit Saint Petersburg là sân vận động Petrovsky. Sân vận động ban đầu tại vị trí này được thiết kế bởi kiến trúc sư người Séc Aloise Wejwoda và xây dựng từ năm 1924 đến 1925. Trải qua chiến tranh thế giới thứ hai, sân vận động đã bị phá hủy hoàn toàn. Từ năm 1957 đến 1961, sân được xây lại gần như toàn bộ bởi các kiến trúc sư Baranov, Guryev và Fromzel. Trước Thế vận hội Mùa Hè 1980, sân Petrovsky đã được nâng cấp sức chứa lớn hơn. Sân này được công nhận trên toàn thế giới từ năm 1994, với sức chứa 21,405 chỗ ngồi bằng ghế nhựa chống thời tiết. Hiện nay, sân Petrovsky là sân nhà của câu lạc bộ Tosno sau khi Zenit chuyển sang sân mới.
Sân nhà hiện nay của câu lạc bộ Zenit là sân vận động Krestovsky, còn được biết đến với tên gọi Zenit Arena, nằm ở phía tây đảo Krestovsky, Saint Petersburg, Nga.
Sân vận động này đã được lên kế hoạch từ tháng 12 năm 2008, nâng cấp và hoàn thành vào cuối năm 2011, chính thức khai trương vào năm 2017. Sức chứa của sân là 68,134 người. Sân Krestovsky đã trở thành sân nhà chính thức của Zenit từ mùa giải 2017-2018, và cũng là nơi diễn ra FIFA Confederations Cup 2017 và FIFA World Cup 2018 khi Nga là chủ nhà.
Dự án kiến trúc của sân vận động đã được giao cho kiến trúc sư Kisho Kurokawa. Thiết kế của sân là một phiên bản được chỉnh sửa và mở rộng dựa trên sân vận động Toyota tại thành phố Toyota, Nhật Bản, cũng do kiến trúc sư Kurokawa thiết kế. Sân vận động được xây dựng tại địa điểm trước đây của Kirov Stadium, trước khi bị phá hủy.
Sức chứa hiện tại của sân vận động trong các trận đấu bóng đá là hơn 68.314 chỗ ngồi, và có thể lên đến hơn 80.000 chỗ ngồi cho các sự kiện âm nhạc. Chiều cao của sân vận động là 79 mét, và tổng chiều cao lên đến 110 mét khi tính cả giá treo. Sân bao gồm 9 tầng và tổng diện tích là 287.600 m². Tất cả các chi phí xây dựng, sửa chữa, nâng cấp của sân theo báo cáo ban đầu lên đến 6,7 tỷ Rúp, tất cả các chi phí đều do tập đoàn Gazprom chi trả, nhưng sau đó những thông tin trong giới truyền thông cho rằng sân vận động đã được xây dựng với ngân sách của thành phố Saint Petersburg lên tới 14 tỷ Rúp.
Danh hiệu
Siêu cúp châu Âu1- 2008
- 2007-08
- 1984, 2007, 2010, 2011–12, 2014–15, 2018–19, 2019–20, 2020–21, 2021–22, 2022–23
- 1944, 1998–99, 2009–10, 2015–16, 2019–20
- 1984, 2008, 2011, 2015, 2016, 2020, 2021, 2022, 2023
- 2003
- 1984
- 1944
- 1984
Thành tích tại giải vô địch quốc gia
Cầu thủ đội hình
Đội hình hiện tại
- Tính đến ngày 5 tháng 3 năm 2023.
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong luật của FIFA. Cầu thủ có thể giữ nhiều quốc tịch ngoài FIFA.
|
|
Danh sách đội trưởng CLB
Cầu thủ | Giai đoạn |
---|---|
Aleksey Naumov | 1992–1993 |
Oleg Dmitriyev | 1993–1994 |
Vladimir Kulik | 1995–1996 |
Yuriy Vernydub | 1997–2000 |
Andrey Kobelev | 2000–2001 |
Aleksei Igonin | 2001–2003 |
Vladislav Radimov | 2003–2007 |
|
2007 |
Erik Hagen | 2007 |
Anatoliy Tymoshchuk | 2007–2009 |
Vyacheslav Malafeev | 2009 |
Aleksandr Anyukov | 2009–2012 |
Vyacheslav Malafeev | 2012 |
Danny | 2012–2013 |
Roman Shirokov | 2013 |
Danny | 2014–2017 |
Domenico Criscito | 2017–2018 |
Aleksandr Anyukov | 2018–2019 |
Branislav Ivanović | 2019–2020 |
Artem Dzyuba | 2020 |
Dejan Lovren | 2020–2022 |
Douglas Santos | 2023– |
Đội dự bị
Đội dự bị của Zenit được biết đến với các tên gọi FC Zenit-2 St. Petersburg và FC Zenit-d St. Petersburg (tham gia Giải hạng ba Nga từ 1994-1997). Một đội khác được thành lập với tên FC Lokomotiv-Zenit-2 St. Petersburg cùng thi đấu với FC Zenit-2 St. Petersburg ở Giải hạng 2 từ năm 2001 đến 2008. Vào năm 2008, không có bất kỳ mối liên hệ nào giữa đội bóng này và FC Zenit. Một đội bóng khác là FC Smena-Zenit St. Petersburg tham gia lần đầu tiên vào Giải hạng 2 Nga vào năm 2009, đã đổi tên từ F Zenit-2.
Tổ chức
Ban huấn luyện
Vị trí | Tên |
---|---|
Huấn luyện viên trưởng | Sergei Semak |
Trợ lý huấn luyện viên | Aleksandr Nizelik William Artur de Oliveira Igor Simutenkov Anatoliy Tymoshchuk Aleksandr Anyukov |
Huấn luyện viên thủ môn | Mikhail Biryukov Yuri Zhevnov |
Huấn luyện viên thể lực | Ivan Carminati Andrea Scanavino Mariya Burova |
Bác sĩ | Mikhail Grishin |
Nguồn: http://fc-zenit.ru/zenit/coaches/
Ban lãnh đạo
Vị trí | Tên |
---|---|
Chủ tịch | Alexander Medvedev |
Chủ tịch hội đồng | Sergei Fursenko |
Giám đốc thể thao | Konstantin Sarsaniya |
Giám đốc thương mại | Dmitry Mankin |
Giám đốc phát triển | Rosteslav Leontiev |
Giám đốc quan hệ | Zhanna Dembo |
Giám đốc an ninh | Yuri Fedotov |
Giám đốc khu phức hợp | Vasily Kostrovsky |
Cố vấn | Maxim Mitrofanov |
Nguồn: http://fc-zenit.ru/zenit/coaches/
Thị trường chuyển nhượng
Top 10 cầu thủ được mua với giá cao nhất
# | Cầu thủ | Chi phí | Từ |
---|---|---|---|
1 | Hulk | €55,000,000 | Porto |
2 | Axel Witsel | €40,000,000 | Benfica |
3 | Danny | €30,000,000 | Dinamo Moskva |
4 | Leandro Paredes | €23,000,000 | AS Roma |
5 | Bruno Alves | €22,000,000 | Porto |
6 | Sebastián Driussi | €20,000,000 | River Plate |
7 | Salomón Rondón | €18,000,000 | Rubin Kazan |
8 | Javi García | €17,000,000 | Manchester City |
9 | Domenico Criscito | €15,000,000 | Genoa |
10 | Anatoliy Tymoshchuk | €14,000,000 | Shakhtar Donetsk |
Top 10 cầu thủ được bán với giá cao nhất
# | Cầu thủ | Chi phí | Đến |
---|---|---|---|
1 | Hulk | €56,000,000 | Shanghai SIPG |
2 | Ezequiel Garay | €24,000,000 | Valencia |
3 | Axel Witsel | €20,000,000 | Tianjin Quanjian |
4 | Salomón Rondón | €18,000,000 | West Brom |
5 | Andrey Arshavin | €16,500,000 | Arsenal |
6 | Igor Denisov | €15,000,000 | Anzhi |
7 | Anatoliy Tymoshchuk | €14,000,000 | Bayern Munich |
8 | Martin Škrtel | €13,000,000 | Liverpool |
9 | Aleksandr Kerzhakov | €11,000,000 | Sevilla |
10 | Pavel Pogrebnyak | €10,000,000 | Stuttgart |
Thống kê số liệu
Top 10 cầu thủ ghi nhiều bàn nhất
# | Cầu thủ | Số bàn | Giai đoạn |
---|---|---|---|
1 | Alexander Kerzhakov | 146 | 2001-2017 |
2 | Vladimir Kulik | 87 | 1992-1996 |
3 | Andrey Arshavin | 74 | 2000-2015 |
4 | Hulk | 74 | 2012-2016 |
5 | Danny | 66 | 2008-2017 |
6 | Igor Zazulin | 43 | 1992-1999 |
7 | Roman Shirokov | 42 | 2008-2013 |
8 | Konstantin Zyryanov | 40 | 2007-2014 |
9 | Artem Dzyuba | 35 | 2015-2017 |
10 | Alexander Spivak | 33 | 2000-2007 |
Top 10 cầu thủ ra sân nhiều nhất
# | Cầu thủ | Số trận | Giai đoạn |
---|---|---|---|
1 | Vyacheslav Malafeev | 417 | 1999-2016 |
2 | Aleksandr Kerzhakov | 384 | 2001-2017 |
3 | Aleksandr Anyukov | 364 | 2005-2017 |
4 | Andrey Arshavin | 362 | 2000-2015 |
5 | Igor Denisov | 355 | 2002-2013 |
6 | Nicolas Lombaerts | 286 | 2007-2017 |
7 | Konstantin Zyryanov | 266 | 2007-2014 |
8 | Danny | 257 | 2008-2017 |
9 | Viktor Fayzulin | 229 | 2008-2017 |
10 | Igor Shirokov | 198 | 2008-2013 |
Quản lý và điều hành
Danh sách các chủ tịch và huấn luyện viên của câu lạc bộ Zenit tính từ khi Liên Xô sụp đổ thành nước Nga.
Chủ tịch của CLB
Tên | Giai đoạn |
---|---|
Vladislav Gusev | 1990–92 |
Leonid Tufrin | 1992–94 |
Vitaly Mutko | 1995–2003 |
David Traktovenko | 2003–05 |
Sergey Fursenko | 2006–08 |
Alexander Dyukov | 2008–2017 |
Sergey Fursenko | 2017– |
Quản lý dự án
Tên | Giai đoạn |
---|---|
Yuri Morozov | 1991 |
Vyacheslav Melnikov | 1992–94 |
Pavel Sadyrin | 1995–96 |
Anatoliy Byshovets | 1997–98 |
Anatoli Davydov | 1998–00 |
Yuri Morozov | 2000–02 |
Mikhail Biryukov | 2002 |
Boris Rappoport | 2002 |
Vlastimil Petržela | 2003–06 |
Vladimír Borovička | 2006 |
Dick Advocaat | 2006–09 |
Anatoli Davydov | 2009 |
Luciano Spalletti | 2009–14 |
Sergei Semak | 2014 |
André Villas-Boas | 2014–16 |
Mircea Lucescu | 2016–17 |
Roberto Mancini | 2017–nay |
Giải thưởng cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất năm
|
|
Huấn luyện viên xuất sắc nhất năm
- 2008: Dick Advocaat
- 2010: Luciano Spalletti
- 2011: Luciano Spalletti
Vua phá lưới
- 1976: Alexander Markin
- 2004: Alexander Kerzhakov
- 2015: Hulk
Vua phá lưới tại Cúp châu Âu
- 2008: Pavel Pogrebnyak
- 2017: Juliano
Thủ môn xuất sắc nhất
|
|
Các cựu cầu thủ nổi tiếng
Đã từng thi đấu cho đội tuyển quốc gia của họ. Những cầu thủ sau đây là những người đáng chú ý nhất của quốc gia mình khi khoác áo Zenit.
|
|
|