
Flamenco | |
---|---|
Nguồn gốc từ loại nhạc | Andalusian, Gitano, Mozarabic, Moorish, Sephardic, Byzantine |
Nguồn gốc văn hóa | Andalusia |
Nhạc cụ điển hình | Spanish guitar, Flamenco guitar, palillos, palmas (music) và cajón |
Tiểu thể loại | |
Alegrías - Bulerias - Tangos - Fandangos - Farruca - Peteneras - Sevillana - Siguiriyas - Soleares - Tientos - Zambra - and many others, see the palos list below. | |
Thể loại pha trộn | |
New Flamenco | |
Chủ đề liên quan | |
Music of Tây Ban Nha - Music of Andalusia Cante Chico - Cante Jondo - Cante Intermedio - Falseta |
Flamenco (phát âm Tây Ban Nha: [flaˈmeŋko]), là một hình thức nghệ thuật đặc sắc bắt nguồn từ các truyền thống âm nhạc dân gian của miền nam Tây Ban Nha, đặc biệt là trong các vùng Andalusia và Murcia. Thuật ngữ này cũng dùng để chỉ nhiều phong cách âm nhạc Tây Ban Nha khác. Tài liệu sớm nhất về flamenco được ghi nhận từ năm 1774 trong cuốn Las Cartas Marruecas của José Cadalso (Akombo 2016) . Flamenco có sự ảnh hưởng lớn từ cộng đồng Romani ở Tây Ban Nha, nhưng phong cách của nó đặc trưng cho Andalusia (Hayes 2009) . Các nghệ sĩ flamenco lịch sử bao gồm cả người Tây Ban Nha gốc Romani và không gốc Romani.
Manuel Ríos Ruiz chỉ ra rằng sự phát triển của flamenco đã được ghi chép rõ ràng qua nhiều hình thức: 'những vở kịch sân khấu như sainetes và tonadillas, các sách và bản nhạc phổ biến, phong tục, nghiên cứu điệu múa và đồ chơi, sự hoàn thiện, báo chí, tài liệu đồ họa trong tranh và bản khắc... tất cả đều đóng góp vào sự phát triển liên tục cùng với nhịp điệu, thơ ca và khung cảnh.' (Ríos Ruiz 1997) .
Nguồn gốc chính xác của flamenco vẫn còn là bí ẩn và đang là chủ đề của nhiều giả thuyết. Theo giả thuyết phổ biến nhất, flamenco được hình thành qua sự giao thoa văn hóa giữa các moriscos và gitanos (người Romani Tây Ban Nha) vào thế kỷ XVI, đặc biệt là ở Đông Andalusia (Machin-Autenrieth 2015) ; Diccionario de la lengua española (Từ điển Tây Ban Nha) chủ yếu quy sự phát triển phong cách trực tiếp cho tiếng Tây Ban Nha Romani (Real Academia Española 2019) .
Flamenco đã thu hút sự chú ý toàn cầu, đặc biệt là ở Hoa Kỳ và Nhật Bản. Tại Nhật Bản, số lượng học viện flamenco còn nhiều hơn cả ở Tây Ban Nha (Mendoza 2011) . 'Tại El Salvador, nhóm Alma Flamenca được xem là đại diện tiêu biểu và tiên phong của phong trào âm nhạc này' (Mendoza 2011) .
Vào ngày 16 tháng 11 năm 2010, UNESCO đã công nhận flamenco là một trong những Kiệt tác Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (Anon. 2010) .
Nguồn gốc từ ngữ
Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của từ flamenco trong âm nhạc, nhưng chưa có bằng chứng xác thực nào. Trong tiếng Tây Ban Nha, từ này có thể mang nghĩa 'Flemish' (chỉ người từ vùng Flanders, từng thuộc về Tây Ban Nha) (Harper n.d.) ). Động từ Tây Ban Nha flambear có nghĩa là flambé. Tuy nhiên, thuật ngữ âm nhạc và khiêu vũ này chỉ được ghi nhận từ cuối thế kỷ 18, trong cuốn sách Las Cartas Marruecas của José Cadalso (1774) (Akombo 2016) .
Một giả thuyết của nhà sử học Andalusia Blas Infante cho rằng từ này có nguồn gốc từ thuật ngữ tiếng Ả Rập - Tây Ban Nha fallah mengu, có nghĩa là 'nông dân bị trục xuất', ám chỉ những người Andalusia theo đạo Hồi và Moriscos cùng với người Roma mới đến (Infante 2010 ; Herrera 2006 ).
Một giả thuyết khác cho rằng từ flamenco có thể xuất phát từ từ Tây Ban Nha có nghĩa là 'lửa' hoặc 'ngọn lửa'. Vì vậy, flamenco có thể liên quan đến sự bốc lửa, có thể chỉ các nhạc công và người biểu diễn Gitano (Ruiz 2007) .
Các điệu

Các điệu (trước đây gọi là cantes) là các phong cách flamenco, được phân loại dựa trên nhịp điệu, chế độ, sự tiến triển của hợp âm, cấu trúc thơ ca và nguồn gốc địa lý. Có hơn 50 các điệu khác nhau, một số được trình bày không có nhạc đệm, trong khi một số khác có thể có guitar hoặc các nhạc cụ khác. Một số được sử dụng trong khiêu vũ, một số thì không. Một số dành cho nam, số khác dành cho nữ, và một số có thể biểu diễn bởi cả hai giới, mặc dù các truyền thống này đang dần thay đổi: ví dụ, điệu nhảy Farruca, vốn là điệu nhảy của nam giới, giờ đây cũng thường được nữ giới thể hiện.
Có nhiều cách phân loại Các điệu, nhưng truyền thống chia thành ba loại chính: loại nghiêm túc nhất gọi là cante jondo (hoặc cante grande), trong khi các dạng nhẹ nhàng hơn gọi là cante chico. Những hình thức không thuộc hai loại này được xếp vào cante intermedio (Pohren 2005) . Đây là những các điệu phổ biến nhất (Anon. 2019 ; Anon. 2012 ):
- Alegrías
- Bulerías
- Bulerías từ soleá (soleá từ bulerías)
- Caracoles
- Cartageneras
- Fandango
- Fandango de Huelva
- Fandango Malagueño
- Farruca
- Granaínas
- Guajiras
- Malagueñas
- Martinete
- Mineras
- Nanas
- Peteneras
- Rondeñas
- Saeta
- Seguiriyas
- Soleá
- Tangos
- Tanguillos
- Tarantos
- Tientos
- Villancicos
Âm nhạc
Cấu trúc
Một buổi biểu diễn flamenco điển hình với giọng hát và guitar đi kèm thường bao gồm nhiều đoạn nhạc (không chính xác là 'bài hát') trong các cung điệu khác nhau. Mỗi đoạn nhạc bao gồm các câu thơ (gọi là copla, tercio, hoặc letras), được phân chia nhịp bởi các đoạn guitar xen kẽ (falsetas). Các nghệ sĩ guitar cũng thiết lập các thanh khiết, Compas (xem bên dưới) và sự phát triển của cante (Manuel 2006) . Trong một số palos, các đoạn nhạc cũng có cấu trúc cụ thể; chẳng hạn, sevillanas thường theo mẫu AAB, trong đó A và B là cùng một falseta nhưng có sự khác biệt nhỏ ở phần kết (Martin 2002) .
Hợp âm
Flamenco sử dụng chế độ Flamenco (cũng có thể gọi là chế độ Phrygian hiện đại (modo frigio), hoặc một phiên bản hòa âm của âm giai với nốt chính thứ 3), bên cạnh các âm giai trưởng và thứ thường thấy trong âm nhạc phương Tây hiện đại. Chế độ Phrygian xuất hiện trong các palos như Solea, cũng như hầu hết các bản nhạc bulerías, siguiriyas, Tangos và tientos.

Một chuỗi hợp âm điển hình, thường được gọi là 'nhịp Andalusia', có thể được coi là một biến thể của chế độ Phrygian: trong âm giai E, chuỗi hợp âm là Am – G – F – E (Manuel 2006) . Theo Manolo Sanlúcar, E là âm chủ, F có chức năng diatonic chủ yếu, trong khi Am và G đảm nhận các chức năng phụ và trung gian tương ứng (Torres Cortés 2001) .
Các nghệ sĩ guitar thường chỉ sử dụng hai dạng hợp âm cơ bản hoặc 'hình dạng hợp âm' cho các hợp âm phụ, đó là dạng đảo ngược mở E và dạng đảo ngược mở A, mặc dù họ thường xuyên thay đổi chúng bằng cách sử dụng capo. Các nghệ sĩ guitar hiện đại như Ramón Montoya đã giới thiệu các vị trí hợp âm mới: Montoya sử dụng các hợp âm khác để làm phong phú thêm các đoạn Dorian trong một số palos; F ♯ cho tarantas, B cho granaínas và A ♭ cho minera. Montoya cũng đã sáng tạo một palo mới cho guitar solo, rondeña trong C ♯ với scordatura. Các nhạc công guitar sau đó đã tiếp tục mở rộng các kỹ thuật âm và cấu trúc của âm điệu, vị trí âm và scordatura.
Bên cạnh đó, cũng có những palos sử dụng chế độ chính; hầu hết các cantiñas, alegrías, guajiras, một số bulerías và tonás, cùng với cabales (một dạng siguiriyas chính). Chế độ phụ chỉ xuất hiện trong Farruca, milongas (trong số cantes de ida y vuelta), và một số kiểu tangos, bulerías, v.v. Nói chung, các palos truyền thống sử dụng chế độ chính và phụ thường bị giới hạn về mặt hòa âm trong các giai điệu tiến triển của hai hợp âm (tonic - chủ đạo) hoặc ba hợp âm (tonic - phụ - chủ đạo) (Rossy 1998) . Tuy nhiên, các nghệ sĩ guitar hiện đại đã giới thiệu các cách thay thế hợp âm, hợp âm chuyển tiếp và thậm chí là điều chế.
Fandangos và các palos liên quan như malagueñas, tarantas và cartageneras thường có hai phương thức: phần giới thiệu của guitar ở chế độ Phrygian trong khi phần hát phát triển ở chế độ chính, rồi điều chỉnh về chế độ Phrygian ở cuối khổ thơ (Rossy 1998) .