


Gà lông màu trắng hay gà trắng là tên gọi để phân loại các giống gà công nghiệp trong hệ thống chăn nuôi công nghiệp. Những con gà này có bộ lông đồng màu trắng sáng. Gà lông trắng là một loại gà được nuôi rộng rãi trong ngành chăn nuôi gia cầm toàn cầu và thường được hiểu đồng nghĩa với gà công nghiệp trong tiếng Việt.
Gà lông trắng thường được so sánh với gà lông màu, trong đó gà lông trắng thường được liên kết với các giống gà công nghiệp, đặc biệt là gà thịt. Một số giống gà trắng cũng được nuôi để lấy trứng và thường được nuôi trong các hệ thống lồng tập trung, trong khi gà lông màu thường chỉ các giống gà nuôi thả vườn và có thể được nuôi cả để lấy trứng lẫn thịt.
Đặc điểm nổi bật
Lợi ích vượt trội
Các giống gà này có những đặc điểm chung như lông trắng, mào đỏ, và khả năng sinh trưởng nhanh chóng. Chúng có thể đạt trọng lượng tối đa chỉ trong 35-50 ngày, với con mái nặng từ 2,1-3,4 kg và con trống nặng từ 2,4-4,1 kg tùy loại. Chúng cũng sản xuất từ 160-180 quả trứng mỗi năm. Gà công nghiệp lông trắng có thể đạt trọng lượng từ 2,7-3,2 kg chỉ trong 40-45 ngày nuôi.
Ưu điểm của việc nuôi gà lông trắng là thời gian nuôi ngắn (khoảng 40-45 ngày là có thể xuất bán), và tiêu tốn thức ăn ít hơn so với gà lông màu. Để sản xuất 1 kg thịt, gà lông trắng cần khoảng 1,60-1,75 kg thức ăn. Nếu sản xuất 1 triệu tấn thịt gà, việc sử dụng gà thịt lông trắng có thể tiết kiệm tới 400.000 tấn thức ăn mỗi năm. Thông thường, gà lông trắng có thể được xuất chuồng sau 35-50 ngày với trọng lượng từ 2,2-3,7 kg. Nếu trọng lượng vượt quá 4-4,2 kg, gà sẽ trở thành gà già và không còn được tiêu thụ.
Những hạn chế
Mặc dù gà trắng có chi phí xây dựng chuồng trại cao (khoảng từ 700 triệu đến 1 tỷ đồng cho chuồng 5.000 - 6.000 con), chúng thường được nuôi trong các trại lạnh và khép kín với mật độ từ 8 – 12 con/m2. Việc nuôi gà trắng đòi hỏi điện năng liên tục để duy trì nhiệt độ, vì gà có thể chết nếu mất điện chỉ trong vài giờ, dẫn đến chi phí điện năng cao. Hiện tại, tất cả các khâu từ con giống, thức ăn, vắc-xin đến giết mổ và chế biến gà trắng đều bị các doanh nghiệp quốc tế chi phối, gây ra tình trạng bị động và rủi ro. Vào mùa đông, chi phí chăn nuôi gà công nghiệp tăng cao do trời lạnh, cần phải sưởi ấm cho đàn gà và gà sẽ tiêu tốn nhiều cám hơn.
Tình hình tại Việt Nam
Quy mô tổng đàn
Hiện tại, Việt Nam đang có gần 10 giống gà lông trắng khác nhau được nhập khẩu từ nhiều quốc gia. Từ năm 2012, tổng đàn và sản lượng thịt gà lông trắng gần như ổn định, dao động quanh mức 50 triệu con. Vào năm 2014, tổng đàn gia cầm của Việt Nam đạt khoảng 246 triệu con, trong đó gà lông trắng là 52 triệu con, chiếm khoảng 21%. Mặc dù tổng đàn gà của Việt Nam gần 328 triệu con vào năm 2014, gà lông trắng chỉ chiếm 52 triệu con, phần còn lại là gà lông màu nuôi thả vườn và gà lông màu nuôi tập trung.
Khu vực Đông Nam Bộ hiện có hơn 3.000 trang trại lạnh nuôi gà lông trắng, mỗi trang trại đầu tư khoảng 1 tỷ đồng, và trên toàn quốc Việt Nam có hơn 5.500 trang trại gà lông trắng. Xã Thanh Bình (huyện Chương Mỹ) nổi bật với số lượng trang trại gà công nghiệp lông trắng, gần 60 trại chăn nuôi gà công nghiệp hiện nay đã chuyển đổi hơn 80% sang các giống khác.
Các công ty chăn nuôi có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 80% thị phần gà lông trắng tại Việt Nam. Đối với công đoạn giống gà công nghiệp, các doanh nghiệp FDI nắm giữ khoảng 79% thị phần trong việc sản xuất giống gà bố mẹ. Tại công đoạn nuôi gà thịt thương phẩm, tỷ lệ chiếm ưu thế của FDI cũng rất cao, đạt khoảng 80% theo hình thức nuôi gia công.
Tiêu thụ thịt gà
Ngành chăn nuôi gà lông trắng hiện vẫn tồn tại nhưng chỉ chiếm một phần nhỏ và chủ yếu phục vụ cho chế biến thực phẩm. Gà trắng công nghiệp chủ yếu được sử dụng trong chế biến xúc xích và phục vụ bếp ăn công nghiệp, còn được chế biến thành sản phẩm zămbông và cung cấp cho bếp ăn của công nhân tại các khu công nghiệp. Tuy nhiên, thịt gà trắng công nghiệp không được người tiêu dùng ưa chuộng.
Gà lông trắng tại Việt Nam chủ yếu được tiêu thụ ở các trường học, khu công nghiệp, và một số chuỗi nhà hàng lớn như KFC đang dần chuyển sang gà thả tự nhiên thay vì gà đẻ trứng nuôi nhốt công nghiệp (chủ yếu là gà lông trắng). Gà công nghiệp chủ yếu phục vụ học sinh, sinh viên và công nhân. Vào dịp Tết Dương lịch, nhu cầu tiêu thụ gần như giảm mạnh, và vào các dịp Tết Nguyên Đán, gà ta thường được ưa chuộng hơn, dẫn đến giá gà công nghiệp giảm.
Phân khúc gà lông trắng đã chứng kiến sự giảm mạnh ở khu vực nuôi tự phát, trong khi ở khu vực nuôi gia công, nó vẫn duy trì ổn định để cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến thực phẩm. Hiện nay, các doanh nghiệp chăn nuôi nước ngoài chủ yếu hưởng lợi từ khâu thức ăn công nghiệp và chế biến, còn khâu con giống và chăn nuôi chỉ đóng vai trò phụ. Do đó, nhiều doanh nghiệp nước ngoài sẵn sàng tặng gà trắng giống khi người dân mua cám.
Thực trạng
Gà lông trắng có một số ưu điểm nhưng hiện tại giá bán rất thấp và phụ thuộc hoàn toàn vào việc nhập khẩu thức ăn, vaccine, và giống. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, lợi thế cạnh tranh của gà lông trắng ngày càng giảm. Nuôi gà lông trắng, dù phổ biến, đang ngày càng kém hiệu quả và nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam nên chuyển sang nuôi gà lông màu để tránh thua lỗ.
Gà lông trắng không có lợi thế so với gà lông màu, với tỷ trọng chỉ 30% ở Việt Nam, phần lớn còn lại là gà lông màu. Các trang trại nuôi gà lông trắng trong nước chủ yếu là nhỏ lẻ, phải nhập khẩu giống, thức ăn, nguyên liệu, và thuốc thú y. Ngược lại, các nước phát triển nuôi gà lông trắng công nghiệp với số lượng lớn, khiến giá thành gà lông trắng ở Việt Nam khó có thể cạnh tranh.
