Thực tế, có nhiều loài động vật có vú có đuôi và tỷ lệ cơ thể dài hơn gấu trúc đỏ, như sóc, chuột túi đỏ và khỉ vervet.
Chiều dài cơ thể của động vật có vú đề cập đến chiều dài từ đầu mõm đến hậu môn hoặc gốc đuôi và chiều dài của đuôi đề cập đến chiều dài từ hậu môn hoặc gốc đuôi đến cuối đuôi (không bao gồm độ dài của lông đuôi).
Với gấu trúc đỏ, chiều dài cơ thể dao động từ 50 cm đến 64 cm và chiều dài đuôi dao động từ 28 cm đến 59 cm. Cho đến nay chưa tìm thấy chiếc đuôi nào dài hơn chiều dài cơ thể ở cùng một con gấu trúc đỏ.

Đương nhiên, chiếc đuôi này cũng rất bắt mắt, chúng ta có thể hiểu chiếc đuôi dài là sự thích nghi của gấu trúc đỏ với môi trường sống trên cây - có thể khiến nó duy trì thăng bằng trong môi trường phức tạp. Nhưng áp lực tiến hóa như vậy không phải là duy nhất đối với gấu trúc đỏ. Một số lượng lớn động vật có vú sống trên cây và sống trên núi cũng có chiến lược tiến hóa tương tự. Một số loài động vật đã tiến hóa đuôi dài do áp lực lựa chọn phương thức di chuyển.
Ví dụ, những loài động vật thường xuyên di chuyển bằng cách nhảy sẽ cần có đuôi dài để ổn định trọng tâm, và một số loài động vật cần có đuôi dày và dài để dễ dàng quay đầu, v.v.

Trong nhóm động vật có vú, đuôi dài không chỉ riêng của gấu trúc đỏ và tỷ lệ chiều dài của nó không phải là 'tốt nhất'. Hầu hết các loài sóc cũng có tỷ lệ chiều dài đuôi tương tự như gấu trúc đỏ. Ví dụ, đuôi của báo tuyết có tỷ lệ chiều dài gần như 1:1 hoặc có thể dài hơn một chút so với chiều dài cơ thể. Vì vậy, gấu trúc đỏ không phải là loài có đuôi dài nhất trên hành tinh.

Loài khỉ nhện đầu nâu (Ateles fusciceps) sống ở tây bắc Trung và Nam Mỹ có chiếc đuôi cực kỳ dài, thậm chí có thể dài hơn nhiều so với cơ thể của chúng. Với tỷ lệ chiều dài đuôi đến chiều dài cơ thể gần như 1:1.9, đuôi dài này giúp chúng dễ dàng vượt qua môi trường cây cối.
Các phép đo chỉ ra rằng, đuôi của báo tuyết có tỷ lệ chiều dài gần như 1:1.9 so với chiều dài cơ thể. Điều này cho thấy đuôi dài của chúng đã thích nghi tốt với môi trường cây cối. Chiếc đuôi dài này cũng giống như 'chi thứ năm' của báo tuyết, giúp chúng linh hoạt trong việc bám vào cành cây.

Loài chuột nhẩy tai dài (Euchoreutes naso) là một loài động vật có vú thuộc họ Dipodidae, bộ Gặm nhấm. Điểm đặc biệt của loài này là đôi tai rất lớn so với kích thước đầu, với chiều dài tai khoảng 1/3 chiều dài đầu.
Loài chuột này sinh sống chủ yếu ở sa mạc Gobi, nơi tọa lạc ở miền Bắc Trung Quốc và cực nam Mông Cổ. Chúng thường hoạt động vào ban đêm và chủ yếu ăn côn trùng. Với chân sau dài và đuôi giúp cân bằng, loài chuột này có khả năng nhảy xa và nhanh chóng. Theo một số ghi chép, chúng sử dụng đuôi để đập mạnh xuống đất, tăng sức bật khi nhảy.

Tuy nhiên, vào thời điểm hiện tại, việc nghiên cứu về loài này và khỉ nhện đầu nâu vẫn còn hạn chế và chưa có sự đầy đủ. Cũng chưa có nghiên cứu sâu hơn về những loài này.
Loài chuột nhẩy tai dài được phát hiện vào năm 1879 và rất khó tiếp cận. Trong khi đó, quần thể khỉ nhện đầu nâu đang đối mặt với nguy cơ nguy hiểm, đặc biệt là các cá thể hoang dã sống trong tán cây và rất khó tiếp cận.