Tên đầy đủ | Generation Gaming |
---|---|
Tên ngắn | GEN / Gen.G |
Môn chơi | Liên Minh Huyền Thoại |
Thành lập | 7 tháng 9 năm 2013; 10 năm trước |
Hiệp hội | KeSPA |
Giải | LCK |
Lịch sử | Samsung Blue và Samsung White (2013–2014) Samsung Galaxy (2014–2017) KSV eSports (2017–2018) Gen.G (2018–nay) |
Trụ sở | 38 Bongeunsa-ro 49-gil, Gangnam, Seoul, Hàn Quốc |
Màu áo | Vàng, đen |
Chủ sở hữu | Kevin Chou Kent Wakeford |
CEO | Arnold Hur |
Giám đốc điều hành | Lee Ji-hun |
HLV trưởng | Kim "Kim" Jung-su |
Đối tác | Manchester City F.C. LG Puma SIDIZ Hyundai LG Uplus Monster Energy AfreecaTV Đại học Kentucky Đại học Eastern Michigan ROCCAT Bithump McDonald's |
Tập đoàn sở hữu | Gen.G |
Website | geng |
Gen.G (tiếng Triều Tiên: 젠지), còn được biết đến với tên Gen.G Esports, là đội tuyển thể thao điện tử hàng đầu trong lĩnh vực Liên Minh Huyền Thoại, thuộc sở hữu của tổ chức Gen.G Esports, hiện đang thi đấu tại giải LCK ở Hàn Quốc. Gen.G là một trong những đội tuyển có lịch sử lâu dài nhất tại giải đấu. Đặc trưng lối chơi kiểm soát của đội được kế thừa từ tiền thân Samsung Galaxy.
Đội tuyển bắt đầu hành trình vào ngày 7 tháng 9 năm 2013 khi tổ chức Samsung tiếp quản suất thi đấu từ hai đội MVP trong Liên Minh Huyền Thoại là MVP Blue và MVP Ozone. Hai đội mới được thành lập với tên gọi Samsung Blue và Samsung Ozone, giữ lại các tuyển thủ từ hai đội cũ của MVP. Đến ngày 11 tháng 6 năm 2014, Samsung Ozone được đổi tên thành Samsung White. Sau Chung kết thế giới 2014, Samsung hợp nhất hai đội thành Samsung Galaxy theo yêu cầu của Riot và chia tay toàn bộ thành viên. Sau khi vô địch thế giới năm 2017, đội tuyển được bán cho KSV eSports và đổi tên thành Gen.G từ ngày 3 tháng 5 năm 2018.
Trong suốt hơn một thập kỷ hoạt động, Gen.G đã giành được 5 chức vô địch quốc nội và 2 cúp vô địch thế giới vào các năm 2014 và 2017 với hai đội hình khác nhau. Gen.G cũng có nhiều cuộc đối đầu nảy lửa với đối thủ đồng hương T1, những trận đấu giữa hai đội luôn thu hút sự chú ý lớn từ cộng đồng người hâm mộ.
Thời kỳ hai đội chị em (2013–2014)
Mùa 3 (2013)
Khi mùa giải LCK hè 2013 khép lại, Samsung Electronics đã gia nhập làng Liên Minh Huyền Thoại bằng việc mua lại hai đội MVP Ozone và MVP Blue từ tổ chức MVP. Hai đội được đổi tên thành Samsung Ozone (SSO) và Samsung Blue (SSB). Với việc MVP Ozone đã có suất tại Chung kết thế giới 2013, Samsung Ozone tự động được tham dự giải này. Trong lần đầu tiên tham gia sân chơi toàn cầu, họ được xếp vào bảng B cùng Fnatic, Gambit Gaming, Team Vulcun và Mineski. Dù có cùng tỉ số 5–3 với Gambit, Samsung Ozone phải chơi tie-break nhưng không vượt qua được vòng đấu này.
Mùa 4 (2014)
Sau một kỳ Chung kết thế giới 2013 không thành công, Ozone đã có sự cải thiện đáng kể tại LCK mùa đông, kết thúc vòng bảng ở vị trí thứ hai chỉ sau SKT T1 K. Samsung Blue, tham gia vòng loại World Cyber Game 2013 khu vực Hàn Quốc và lọt vào chung kết trước khi thua CJ Entus. Họ cũng tham gia vòng thăng hạng và giành suất tại LCK mùa đông 2013–14. Sau giải mùa đông, có sự trao đổi giữa hai đội: PawN từ Blue chuyển sang Ozone, còn dade từ Ozone chuyển sang Blue. Sự thay đổi này mang lại kết quả tích cực cho cả hai đội, với Samsung Blue đoạt chức vô địch và á quân mùa Xuân – Hè, và Ozone đứng top ba trong cả hai mùa. Samsung Ozone sau đó đổi tên thành Samsung White (SSW). Đạt 525 điểm cùng SKT T1 K sau mùa hè, Samsung White đã đánh bại SKT để giành vị trí hạt giống số hai tại Chung kết thế giới 2014. Trong bán kết, Samsung White vượt qua Samsung Blue sau ba ván và sau đó đánh bại Star Horn Royal Club với tỷ số 3–1 trong chung kết. Đội hình của SSW năm 2014 được xem là một trong những đội hình mạnh nhất trong lịch sử các kỳ Chung kết thế giới.
Thời kỳ Samsung Galaxy (2015–2017)
Mùa 5 (2015)
Khi Riot Games áp dụng quy định cấm một tổ chức sở hữu nhiều đội, Samsung buộc phải chia tay tất cả các tuyển thủ từ hai đội Blue và White. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2014, Samsung Galaxy (SSG) được thành lập từ việc sáp nhập hai đội cũ. Đội hình mới của Samsung gặp khó khăn trong năm đầu tiên khi phải chiến đấu để trụ hạng tại LCK Mùa xuân và chỉ kết thúc mùa giải Mùa hè ở vị trí thứ 7. Trong giai đoạn tiền mùa giải 2016, Samsung tham gia KeSPA Cup nhưng bị ESC Ever loại ngay vòng đầu, kết thúc năm 2015 với thành tích không như mong đợi.
Mùa 6 (2016)
Sau khi hoàn thành vòng bảng LCK Mùa xuân 2016 với thành tích 10-8, SSG thất bại trong loạt tie-break tranh hạng 5 trước Afreeca Freecs và không đủ điều kiện dự play-off. Trong giai đoạn giữa mùa, SSG đã chiêu mộ xạ thủ Ruler và chuyển CoreJJ sang vị trí hỗ trợ, mở ra một chương mới cho đội tuyển. Họ kết thúc LCK Mùa hè ở vị trí thứ 4 và giành vé tham dự Chung kết thế giới 2016 sau khi gây bất ngờ đánh bại KT Rolster tại vòng loại khu vực. Tại Chung kết thế giới, SSG đứng đầu bảng D, lần lượt đánh bại C9 3–0 ở tứ kết và H2K 3–0 ở bán kết để đối đầu SKT ở chung kết. Dù đã cân bằng tỉ số 2–2 sau hai trận thua đầu, một sai lầm của xạ thủ Ruler trong ván 5 đã khiến SSG để thua và SKT giành chức vô địch.
Mùa 7 (2017)
Sau thất bại đáng tiếc trước SKT năm 2016, hành trình của SSG đến Chung kết thế giới 2017 cũng đầy thử thách. Họ dừng bước tại bán kết LCK Mùa xuân và phải chiến đấu với Afreeca Freecs và KT Rolster để giành vé tham dự Chung kết thế giới Mùa hè. Sau khi vượt qua Afreeca trong một loạt Bo5 căng thẳng, SSG gây bất ngờ khi đánh bại KT Rolster với tỉ số 3–0 và giành vé thứ ba của khu vực tham dự chung kết tại Hàn Quốc. Samsung đứng thứ 2 bảng C và gặp Longzhu Gaming ở tứ kết, đánh bại đội đương kim vô địch LCK với tỉ số 3–0. Họ tiếp tục vượt qua Team WE của LPL với tỉ số 3–1 ở bán kết dù bị dẫn trước một ván. Tại chung kết, Samsung đã xuất sắc đánh bại SKT với tỉ số 3–0, kết thúc triều đại vô địch kéo dài 2 năm của SKT.
Sau khi đăng quang tại Chung kết thế giới, vào ngày 30 tháng 11 năm 2017, KSV đã chính thức mua lại đội tuyển. Tất cả các thành viên của ban huấn luyện và tuyển thủ của SSG đều được giữ lại.
Thời kỳ KSV – Gen.G (2018–nay)
Những thất bại ban đầu (2018–2021)
Sau khi mua lại Samsung Galaxy, KSV eSports thi đấu tại LCK Mùa xuân 2018 và chỉ xếp thứ 5 chung cuộc. Đến ngày 3 tháng 5 năm 2018, đội tuyển được đổi tên thành Gen.G. Giống như năm 2017, Gen.G lại phải tranh vé dự Chung kết thế giới qua vòng loại khu vực khi chỉ đứng hạng 5 vòng play-off LCK Mùa hè. Họ vượt qua Kingzone DragonX với tỉ số 3-0 và giành vé dự Chung kết thế giới với tư cách đương kim vô địch. Tuy vậy, Gen.G không thể hiện được sự kỳ vọng khi bị loại ngay từ vòng bảng với kết quả 1–5, đứng dưới cả Cloud9 và Team Vitality. Cuối năm đó, Ambition giải nghệ và Crown chuyển sang Bắc Mỹ thi đấu.
Giai đoạn 2018–2021 đánh dấu thời kỳ sa sút của Gen.G khi họ không giành được danh hiệu nào. Thành tích tốt nhất chỉ là hai lần á quân LCK và top 4 Chung kết thế giới năm 2021, dù đội đã chiêu mộ nhiều ngôi sao như Peanut, Bdd và Clid. Họ còn không tham dự Chung kết thế giới 2019 do thành tích kém cỏi.
Khởi sắc dưới thời huấn luyện viên Score (2021–2023)
Sau những năm thi đấu không mấy thành công, Gen.G đã cải tổ đội hình với các bản hợp đồng lớn. Họ đưa Peanut trở lại từ Nongshim, chiêu mộ Chovy, Lehends và Doran, ba ngôi sao nổi bật từ đội hình Griffin. Ban huấn luyện cũng được đổi mới với Score làm huấn luyện viên trưởng. Thành công đến ngay lập tức khi Gen.G giành á quân LCK Mùa xuân 2022. Vào Mùa hè, họ đánh bại T1 3–0 trong chung kết tổng để lần đầu tiên vô địch quốc nội sau khi đổi tên. Tại Chung kết thế giới, với tư cách hạt giống số một, Gen.G đứng đầu bảng D sau trận tie-break với RNG. Tuy nhiên, ở bán kết, họ bất ngờ thua DRX với tỉ số 1–3, phải rời giải dù được xem là ứng cử viên sáng giá cho chức vô địch.
Trước mùa giải 2023, Gen.G đã chia tay xạ thủ huyền thoại Ruler và hỗ trợ Lehends. Họ đưa Peyz từ đội Challengers lên và chiêu mộ hỗ trợ Delight. Dưới sự dẫn dắt của cặp đôi mới này, Gen.G vẫn xuất sắc giành chức vô địch LCK Mùa xuân 2023 dù phải từ nhánh thua. Tại MSI, họ không thể hiện tốt trước T1 và Bilibili Gaming (BLG), thất bại 3-0 trước BLG. Mùa hè, Gen.G một lần nữa lên ngôi quốc nội sau khi đánh bại T1 3–0 ở chung kết. Tuy nhiên, tại Chung kết thế giới, dù được xem là ứng cử viên hàng đầu, họ lại thua Bilibili Gaming sau 5 ván và phải dừng bước ở tứ kết.
Giai đoạn huấn luyện viên Kim (2023–nay)
Sau thất bại trước BLG tại Chung kết thế giới 2023, Gen.G đã thay đổi hầu hết đội hình, đưa về Kiin, Canyon và hồi sinh người cũ Lehends. Huấn luyện viên Kim 'Kim' Jung-su, nhà vô địch Chung kết thế giới cùng iG năm 2018, được chọn làm thuyền trưởng. Với đội hình mạnh mẽ, Gen.G dẫn đầu vòng bảng LCK Mùa hè 2024 và đánh bại T1 3–2 ở chung kết tổng để lần đầu tiên vô địch LCK 4 lần liên tiếp. Vào ngày 19 tháng 5, Gen.G giành được danh hiệu MSI đầu tiên trong lịch sử sau khi chiến thắng Bilibili Gaming 3–1 ở chung kết tổng, đánh dấu danh hiệu quốc tế đầu tiên kể từ khi đội được chuyển nhượng từ Samsung.
Tổng quan mùa giải
Danh sách thống kê chỉ bao gồm các giải đấu thường niên như LCK, MSI và Chung kết thế giới.
Samsung Ozone – Samsung White
Năm | League of Legends Champions Korea | Chung kết thế giới | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
ST | T | H | B | BXH | Play-off | |||
2013 | Không tham dự | Vòng bảng | ||||||
2014 | Mùa đông | 4 | 3 | 1 | 0 | 1 | Á quân | Vô địch |
Mùa xuân | 3 | 3 | 0 | 0 | 1 | 3 | ||
Mùa hè | 3 | 2 | 1 | 0 | 1 | 3 |
Samsung Blue
Năm | League of Legends Champions Korea | Chung kết thế giới | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
ST | T | H | B | BXH | Play-off | |||
2014 | Mùa đông | 3 | 0 | 3 | 0 | 2 | Tứ kết | Bán kết |
Mùa xuân | 3 | 2 | 1 | 0 | 1 | Vô địch | ||
Mùa hè | 3 | 2 | 1 | 0 | 1 | Á quân |
Samsung Galaxy
Năm | League of Legends Champions Korea | Chung kết thế giới | |||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
ST | T | B | BXH | Play-off | |||
2015 | Mùa xuân | 14 | 2 | 12 | 8 | Không tham dự | Không tham dự |
Mùa hè | 18 | 6 | 12 | 7 | Không tham dự | ||
2016 | Mùa xuân | 18 | 10 | 8 | 6 | Không tham dự | Á quân |
Mùa hè | 18 | 12 | 6 | 4 | 4 | ||
2017 | Mùa xuân | 18 | 14 | 4 | 2 | 3 | Vô địch |
Mùa hè | 18 | 13 | 5 | 3 | 4 |
KSV – Gen.G
Năm | League of Legends Champions Korea | Mid-Season Invitational | Chung kết thế giới | |||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
ST | T | B | BXH | Play-off | ||||
2018 | Mùa xuân | 18 | 9 | 9 | 5 | 5 | Không tham dự | Vòng bảng |
Mùa hè | 18 | 13 | 5 | 4 | 5 | |||
2019 | Mùa xuân | 18 | 5 | 13 | 7 | Không tham dự | Không tham dự | Không tham dự |
Mùa hè | 18 | 10 | 8 | 6 | Không tham dự | |||
2020 | Mùa xuân | 18 | 14 | 4 | 1 | Á quân | Không được tổ chức | Tứ kết |
Mùa hè | 18 | 14 | 4 | 3 | 3 | |||
2021 | Mùa xuân | 18 | 13 | 5 | 2 | Á quân | Không tham dự | Bán kết |
Mùa hè | 18 | 12 | 6 | 2 | 3 | |||
2022 | Mùa xuân | 18 | 15 | 3 | 2 | Á quân | Không tham dự | Bán kết |
Mùa hè | 18 | 17 | 1 | 1 | Vô địch | |||
2023 | Mùa xuân | 18 | 13 | 5 | 2 | Vô địch | 4 | Tứ kết |
Mùa hè | 18 | 16 | 2 | 2 | Vô địch | |||
2024 | Mùa xuân | 18 | 17 | 1 | 1 | Vô địch | Vô địch | – |
Thành tích
Danh hiệu quốc nội
- League of Legends Champions Korea: 5 lần vô địch
- Mùa xuân 2014, Mùa hè 2022, Mùa xuân 2023, Mùa hè 2023, Mùa xuân 2024
Danh hiệu quốc tế
- Mid-Season Invitational: 1 lần vô địch
- 2024
- Danh hiệu vô địch thế giới Liên Minh Huyền Thoại: 2 lần
- 2014, 2017
Danh hiệu khác
- LoL Masters: 1 lần
- 2014
- Intel Extreme Masters: 1 lần
- Gyeonggi 2016