
Tàu 016 Quang Trung
| |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Lớp Gepard (Project 1166.1) |
Xưởng đóng tàu | Xưởng đóng tàu Zelenodolsk |
Bên khai thác |
|
Lớp trước |
|
Lớp con |
|
Kinh phí |
|
Thời gian đóng tàu | 1991-2016 |
Thời gian phục vụ | 2003-nay |
Dự tính | 10 |
Hoàn thành | 6 |
Đang hoạt động | 6 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | Tàu frigate |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | Xấp xỉ 102.4 m (Gepard 3.9 đợt II) |
Sườn ngang |
|
Động cơ đẩy | CODOG 2 trục, bánh lái chuyển động tĩnh, 2 x 14,300 + 1 x 6,000 (kW) |
Tốc độ | 29 knot (54 km/h) |
Tầm xa | 4,000 hải lý (7,000 km) ở tốc độ 10 knot (19 km/h) |
Tầm hoạt động | 20 ngày |
Thủy thủ đoàn tối đa | 94 |
Hệ thống cảm biến và xử lý |
|
Tác chiến điện tử và nghi trang |
|
Vũ khí |
|
Máy bay mang theo | Ka-27 |
Lớp tàu hộ vệ tên lửa Gepard (tiếng Nga: Гепард), còn được biết đến với mã hiệu Đề án 11661, được phát triển để thay thế các tàu khu trục lớp Koni, Grisha, và Parchim trước đây. Chiếc đầu tiên thuộc lớp này là Yastreb (Hawk), được chế tạo tại xưởng đóng tàu Zelenodol'sk Zavod ở Tartarstan vào năm 1991. Tàu được hạ thủy vào tháng 7 năm 1993, nhưng việc hoàn thiện chỉ được thực hiện gần như đầy đủ vào năm 1995 do thiếu hụt tài chính. Sau khi đổi tên thành Tartarstan, tàu cuối cùng được hoàn thành vào tháng 7 năm 2002 và hiện đang hoạt động như một soái hạm của Chi hạm đội Caspian. Hai chiếc tàu cùng lớp khác là Albatross (sau đổi tên thành Dagestan) và Burevestnik (Chim báo bão), vẫn đang trong quá trình chế tạo. Bốn tàu thuộc lớp 11661E cũng đã được hoàn thành và bàn giao cho Việt Nam.
Thiết kế
Lớp tàu Gepard được thiết kế để có khả năng hoạt động hiệu quả trên biển trong điều kiện sóng gió cấp 5. Cấu trúc chính của tàu chủ yếu bằng thép, trong khi phần trên của cấu trúc thượng tầng được làm từ hợp kim nhôm-magie. Tàu trang bị cánh ổn định và bánh lái đôi, sử dụng cả động cơ tua bin khí và động cơ diesel trong hệ thống truyền động CODOG, cho phép đạt vận tốc tối đa lên đến 28 hải lý/giờ. Hệ thống điện trên tàu được cung cấp bởi ba máy phát điện diesel, mỗi máy có công suất 600 kW/giờ.
Lịch sử hoạt động
Vào tháng 10 năm 2015, tàu Dagestan cùng ba tàu chiến khác từ Chi hạm đội Caspian của Hải quân Nga đã thực hiện cuộc tấn công bằng tên lửa hành trình vào các mục tiêu ở Syria. Các tên lửa đã bay quãng đường khoảng 1,500 km qua Iran và Iraq, trúng các mục tiêu ở Raqqa và Aleppo (do Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant kiểm soát) cũng như Idlib (dưới sự kiểm soát của Al-Qaeda và Al-Nusra Front). Lực lượng Peshmerga đã công bố một video ghi lại hai tên lửa hành trình đang hướng tới Syria.
Vũ khí

Thân tàu và cấu trúc thượng tầng chủ yếu được chế tạo từ thép, với một số phần của cấu trúc thượng tầng được làm bằng hợp kim nhôm-magie. Thân tàu được chia thành 10 khoang kín nước, cho phép tàu duy trì hoạt động ngay cả khi hai khoang bị thủng và ngập nước.
Hệ thống radar bao gồm radar phát hiện mục tiêu trên không MR-352 'Poritiv' với tầm phát hiện lên đến 130 km, radar điều khiển hỏa lực 'Monolit', radar điều khiển tên lửa phòng không MPZ-301 'Baza', và radar điều khiển pháo phòng không MR-123 Vympel.
Hệ thống tác chiến điện tử trên tàu có thể bao gồm các thiết bị gây nhiễu chủ động và thụ động, cùng với hai bệ phóng PK-16 có 8 ống phóng thiết bị gây nhiễu.
Ngoài các trang bị cơ bản, tàu còn có thể được trang bị các hệ thống sau:
- 1 hệ thống phòng thủ tầm gần Palma, với: 8 tên lửa dẫn đường bằng laser 9M337 Sosna-R (tầm bắn 10 km, độ cao tối đa 5 km) và hai pháo GSh-6-30 sáu nòng 30 mm, bắn đạn xuyên giáp tách vỏ (APDS) và đạn cháy/phân mảnh (HEFI). Mỗi khẩu pháo có 1.500 viên đạn sẵn sàng, tốc độ bắn 10.000 phát/phút, sơ tốc đầu nòng 900 m/s. Pháo có tầm bắn hiệu quả 4.000 m đối với mục tiêu trên không và 5.000 m đối với mục tiêu trên biển. Hệ thống điều khiển radar, quang học kết hợp hồng ngoại của Palma có thể phát hiện tàu nhỏ ở khoảng cách 70 km và máy bay chiến đấu nhỏ ở 7 km. Thời gian phản ứng của Palma từ 3 đến 5 giây (từ khi phát hiện mục tiêu đến khi khai hỏa).
- 8 tên lửa chống hạm Kh-35 (2 bệ phóng, mỗi bệ có 4 ống phóng)
- 1 pháo hải quân đa dụng AK-176M (152 viên đạn), với tầm bắn khoảng 15 km. Tháp pháo nặng 9,5 tấn, góc xoay của giá đỡ pháo là +/- 175 độ theo phương vị và -10 độ đến +85 độ theo độ cao. Vận tốc của đạn pháo là 980 m/s, với chế độ bắn 30, 60 và 120 viên/phút. Với tốc độ 120 viên/phút, pháo bắn được 75 phát trước khi cần thời gian làm nguội nòng khoảng 30 phút. AK-176M có hiệu quả cao trong việc chống tên lửa, cần khoảng 25 viên đạn để bắn hạ một tên lửa chống hạm cận âm như AGM-84 Harpoon. Các tàu lớp Gepard mới được trang bị phiên bản AK-176MA, có khả năng bắn tối đa 150 viên/phút với độ chính xác cao hơn và hệ thống quang học Sfera-2 với phạm vi quan sát lớn hơn, tháp pháo giảm còn dưới 9 tấn.
- Sàn đáp và khoang chứa trực thăng săn ngầm Ka-28
- Thiết bị định vị thủy âm VDS ở các độ sâu khác nhau
Để thực hiện nhiệm vụ chống ngầm, Gepard trang bị bệ phóng đôi ngư lôi 533 mm ở mỗi bên tàu, sử dụng ngư lôi TEST-71M-NK. Ngư lôi TEST-71M-NK có dây dẫn điều khiển, có thể chuyển mục tiêu và cơ động theo hai trục. Với tầm bắn 20 km và tốc độ 35 hải lý, ngư lôi dài 7,93 mét, trọng lượng 1.820 kg và đầu đạn 205 kg. Ngư lôi này có hai loại ngòi nổ khác nhau: một là ngòi âm học và một là ngòi từ trường của mục tiêu.
Mặc dù chưa rõ các loại sonar cụ thể trên tàu Gepard, các mẫu Gepard ban đầu của Hải quân Nga thường được trang bị bộ sonar thân tàu MGK-335EM-03. Đây là loại sonar chủ động/thụ động có góc quét 260 độ, có khả năng phát hiện tàu ngầm ở khoảng cách 10–12 km và ngư lôi ở khoảng cách 2 km.
Gepard được trang bị ba loại radar chính:
- Radar tìm kiếm ba chiều Pozitiv-ME1 hoạt động trên băng tần X, có khả năng theo dõi 40 mục tiêu đồng thời và đặc biệt theo dõi 3 đến 5 mục tiêu cho tên lửa. Radar này có thể phát hiện mục tiêu cách xa đến 150 km khi bay ở độ cao 30.000 mét. Đối với các mục tiêu trên không, radar có thể phát hiện máy bay chiến đấu với RCS > 1 m2 từ khoảng cách 110 km khi bay ở độ cao 1.000 mét, và tên lửa chống hạm với RCS > 0,03 m2 ở độ cao 15 mét từ khoảng cách 13-15 km.
- Radar điều khiển hỏa lực Mineral-ME dành cho tên lửa chống hạm Kh-35 có khả năng phát hiện tối đa 250 km ở chế độ chủ động, và lên đến 450 km ở chế độ thụ động. Nó có thể điều khiển tên lửa hiệu quả trong phạm vi 30 km, đồng thời theo dõi 10 mục tiêu. Radar này còn có khả năng giám sát 200 mục tiêu mặt nước, theo dõi tối đa 50 mục tiêu (chế độ thụ động) hoặc 30 mục tiêu (chế độ chủ động) và trao đổi dữ liệu với 9 tàu mặt nước khác.
- Radar điều khiển hỏa lực MR-123 Laska được dùng cho các loại pháo 30 mm, pháo 76 mm và hệ thống Palma.
Hệ thống quản lý chiến đấu Sigma-E là trung tâm điều khiển của con tàu. Nó tích hợp máy tính và phần mềm để kết nối và điều khiển toàn bộ vũ khí, dữ liệu, cảm biến và thiết bị của tàu. CMS là cơ quan chỉ huy và ra quyết định trung tâm trong hệ thống chiến đấu, giúp các thủy thủ phản ứng nhanh chóng và hiệu quả hơn với các mối đe dọa, đặc biệt trong các tình huống chiến đấu. Hệ thống Sigma-E có thể được trang bị tới 12 trạm làm việc để quản lý các quy trình chỉ huy và kiểm soát.
Về hệ thống tác chiến điện tử và biện pháp đối phó, tàu Gepard được trang bị hệ thống ECM MP-405E và MP-407E, hệ thống đối phó sonar, trạm phát hiện laser Spektr-F4 và bốn ống phóng mồi nhử PK-10:
- Hệ thống ECM MP-405E và MP-407E được thiết kế để làm nhiễu tín hiệu từ các radar trên không và trên tàu như radar tìm mục tiêu, radar điều khiển vũ khí, và radar tìm kiếm. Nó thực hiện phân loại tín hiệu tự động để đánh giá các mối đe dọa và cung cấp biện pháp gây nhiễu phù hợp. Các hệ thống này còn tạo ra tín hiệu giả và phá vỡ hệ thống chỉ huy của đối phương. Bao gồm 2 thiết bị đánh chặn thụ động Bell Shroud và 2 thiết bị gây nhiễu Bell Squat.
- Hệ thống phóng mồi nhử PK-10 phóng ra các mồi nhử và pháo sáng để đánh lừa tên lửa có hệ thống dẫn đường hồng ngoại hoặc radar. Mỗi bệ phóng PK-10 mang theo 10 viên đạn 120 mm dài 1,22 mét và nặng 25 kg, thuộc loại A3-SR-50, A3-SO-50 hoặc A3-SOM-50. Tàu Gepard trang bị bốn bệ phóng PK-10, chia thành 2 ở phía trước và 2 ở phía sau tàu.
Xuất khẩu

Lớp tàu Gepard được thiết kế để phục vụ xuất khẩu với mức giá phải chăng và là lựa chọn hạng nhẹ. Nga đã cung cấp ba phiên bản khác nhau trên thị trường:
- Gepard 3.9: Được thiết kế để thực hiện các nhiệm vụ tìm kiếm, theo dõi và tấn công các mục tiêu trên mặt đất, dưới nước và trên không một cách độc lập, không cần phụ thuộc vào các tàu khác trong nhóm tác chiến. Tàu được trang bị động cơ tua bin khí với cấu hình CODOG và có hai bệ phóng tên lửa chống hạm Kh-35, mỗi bệ chứa 4 tên lửa. Ngoài ra, có kế hoạch trang bị hệ thống phóng thẳng đứng 3S-14 cho các tên lửa Club-N, Yakhont và hệ thống phòng không Shtil-1. Hiện tại, Việt Nam là quốc gia duy nhất vận hành phiên bản này.
- Gepard 5.1: Được trang bị như một tàu tuần tra xa bờ, phục vụ các nhiệm vụ tuần tra vùng biển lãnh thổ, tìm kiếm cứu nạn, bảo vệ môi trường và hỗ trợ các hoạt động trên biển. Có thể lắp đặt thêm vũ khí theo yêu cầu. Tàu sử dụng động cơ diesel 2 trục theo cấu hình CODAD.
- Gepard 5.3: Tương tự như phiên bản 3.9 nhưng được trang bị 4 bệ phóng với tổng số 16 tên lửa Kh-35 và sử dụng hệ thống truyền động CODAD.
Việt Nam
Vào năm 2006, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã đặt hàng hai tàu chiến lớp Gepard 3.9, và chúng đã được bàn giao vào năm 2011. Tiếp theo, vào năm 2013, Việt Nam đã mua thêm hai tàu nữa, và chúng đã được chuyển giao vào đầu năm 2018.
Lô Gepard đầu tiên có giá 175 triệu USD mỗi chiếc, trong khi giá của lô thứ hai tăng lên 350 triệu USD mỗi chiếc. Mặc dù chi tiết về nâng cấp chưa rõ ràng, nhưng có thể thấy qua hình ảnh rằng các tàu trong lô sau đã được cải tiến thiết kế so với lô đầu tiên, cụ thể là:
- Hai tàu Gepard đầu tiên có kích thước 102,14 x 13,09 x 5,3 mét, trong khi hai tàu của lô sau có kích thước lớn hơn một chút là 102,4 x 14,4 x 5,6 mét.
- Thủy thủ đoàn trên hai tàu Gepard đầu tiên gồm 103 người, trong khi hai tàu lô sau chỉ có 84 người (giảm 19 người) nhờ vào việc cải tiến tự động hóa. Những tàu này cũng có không gian bổ sung cho 16 nhân sự nếu cần thiết.
- Hai tàu trong lô thứ hai được trang bị hệ thống đẩy cải tiến, tuy nhiên chi tiết cụ thể về nâng cấp chưa được rõ ràng.
- Lô Gepard thứ hai sử dụng hệ thống điều khiển tàu tích hợp Moskit-11661, trong khi lô đầu tiên sử dụng một hệ thống điều khiển đơn giản hơn.
- Các tàu trong lô thứ hai có trang bị vũ khí chống ngầm bao gồm sonar và hai bệ phóng ngư lôi kép, trong khi lô đầu tiên không có các thiết bị này.
- Các tàu lô đầu tiên được trang bị pháo AK-176M, trong khi các tàu lô thứ hai sử dụng pháo AK-176MA tiên tiến hơn.

Ngoài các nâng cấp đã nêu, có thể còn nhiều cải tiến khác trên các tàu Gepard của lô thứ hai mà chưa được thể hiện qua hình ảnh công bố. Việc giá của các tàu lô thứ hai gấp đôi so với lô đầu tiên chủ yếu do động cơ và hệ thống vũ khí chống ngầm cải tiến. Một số ý kiến cho rằng Việt Nam không nên chọn nhà thầu Nga vì thời gian thi công kéo dài và giá cả đắt đỏ, điều này không hiệu quả so với sự mở rộng nhanh chóng của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Hải quân Việt Nam đã thiết lập một cơ sở đào tạo hiện đại cho các tàu Gepard, sử dụng hệ thống mô phỏng Laguna-11661.
Vào năm 2020, có thông tin cho rằng Hải quân Nhân dân Việt Nam đang cân nhắc việc đặt hàng thêm một cặp tàu Gepard, dự kiến sẽ được trang bị thêm cụm 8 ống phóng thẳng đứng có khả năng phóng tên lửa phòng không tầm trung và cao S-300F, cùng tên lửa hành trình 3M-54 Klub.
Srilanka
Srilanka đã bắt đầu đàm phán để mua các tàu lớp Gepard 5.1, và vào tháng 9 năm 2017, Tổng thống Maithripala Sirisena đã phê duyệt hợp đồng.
Các tàu trong lớp
Số hiệu | Tên | Định danh | Nhà sản xuất | Đặt lườn | Hạ thủy | Biên chế | Hạm đội | Tình trạng |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hải quân Nga (2) | ||||||||
691 | Tatarstan (tên cũ Yastreb) | 11661 | Xưởng đóng tàu Zelenodolsk | 1993 | 2 tháng 7 năm 2001 | 31 tháng 4 năm 2003 | Chi hạm đội Caspi | Hoạt động |
693 | Dagestan (tên cũ Albatros) | 11661K | 1994 | 1 tháng 4 năm 2011 | 28 tháng 11 năm 2012 | Hoạt động | ||
Hải quân Nhân dân Việt Nam (4+2) | ||||||||
011 | Đinh Tiên Hoàng | 11661E (Gepard 3.9 I) | Xưởng đóng tàu Zelenodolsk | 10 tháng 7 năm 2007 | 12 tháng 12 năm 2010 | 23 tháng 3 năm 2011 | Vùng 4 Hải quân | Hoạt động |
012 | Lý Thái Tổ | 27 tháng 11 năm 2007 | 16 tháng 3 năm 2011 | 22 tháng 8 năm 2011 | Hoạt động | |||
015 | Trần Hưng Đạo | 11661E (Gepard 3.9 II) | 24 tháng 9 năm 2013 | 27 tháng 4 năm 2016 | 6 tháng 2 năm 2018 | Hoạt động | ||
016 | Quang Trung | 24 tháng 9 năm 2013 | 26 tháng 5 năm 2016 | 6 thàng 2 năm 2018 | Hoạt động |
Ghi chú
Liên kết tham khảo
- - Bài viết bằng tiếng Anh từ FAS Lưu trữ ngày 2016-03-06 trên Wayback Machine
- Bài viết bằng tiếng Nga Lưu trữ ngày 2009-03-04 trên Wayback Machine
- Khám phá chiến hạm Gepard Đinh Tiên Hoàng tại www.tienphong.vn
Bản mẫu:Tàu chiến Liên Xô thời kỳ Chiến tranh Lạnh