Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều đem đến những thông tin hữu ích, giúp độc giả hiểu sâu hơn về các giá trị hiện thực, nhân văn và phong cách nghệ thuật trong tác phẩm của Nguyễn Du.
Truyện Kiều đã ghi lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, phản ánh chân thực hình ảnh xã hội phong kiến đầy bất công và tàn bạo, đặc biệt là đối với người phụ nữ. Mời các bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây để hiểu sâu hơn:
I. Về Nguyễn Du và Truyện Kiều
1. Tác giả Nguyễn Du
- Nguyễn Du (1765 - 1820), còn được biết đến với tên là Tố Như và hiệu là Thanh Hiên.
- Xuất thân từ làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh ra và lớn lên tại Thăng Long.
- Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc, có nhiều đời làm quan và có truyền thống văn hóa và văn chương.
- Cuộc đời của Nguyễn Du chặt chẽ với những biến cố lịch sử từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX.
- Nguyễn Du là một nhà văn sâu rộng kiến thức, có sự hiểu biết sâu sắc về văn hóa dân tộc và văn chương Trung Hoa.
- Văn học của Nguyễn Du gồm nhiều tác phẩm quý bằng chữ Hán và chữ Nôm.
- Một số tác phẩm bao gồm:
- Có 3 tập thơ bằng chữ Hán (tổng cộng 243 bài): Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.
- Và các tác phẩm chữ Nôm như: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều)...
2. Tác phẩm Truyện Kiều
a. Bối cảnh sáng tác
- Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du được viết vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805 - 1809).
- Nguyễn Du sáng tác “Truyện Kiều” dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Trung Quốc.
- Mặc dù dựa trên cốt truyện của Trung Quốc, tác phẩm của Nguyễn Du vẫn có sự sáng tạo đặc biệt, đem lại thành công và sức hút riêng cho nó.
- Thể loại: Truyện thơ Nôm, bao gồm 3254 câu thơ lục bát.
b. Cấu trúc
Bao gồm 3 phần:
- Phần thứ nhất: Gặp gỡ và hứa hôn
- Phần thứ hai: Giai đoạn khó khăn và lưu lạc
- Phần thứ ba: Sự đoàn tụ
II. Ý nghĩa của Truyện Kiều
1. Ý nghĩa nội dung
- Giá trị thực tế: Truyện Kiều là bức tranh thực tế về một xã hội bất công, tàn ác và tôn trọng tiền bạc. Đặc biệt, tác phẩm còn mô tả số phận của phụ nữ trong xã hội phong kiến - dù có tài năng nhưng không kiểm soát cuộc sống của mình, phải trải qua nhiều khổ cực và đau khổ.
- Ý nghĩa nhân văn:
- Thái độ đầy lòng từ bi trước số phận bi kịch của con người.
- Khẳng định cao quý tài năng, phẩm hạnh và khao khát chân thành của con người: khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc…
- Bài ca về tình yêu tự do, trung thành cũng như ước mơ về một xã hội công bằng.
2. Ý nghĩa nghệ thuật
- Về ngôn ngữ:
- Đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ dân tộc và thể thơ lục bát.
- Sử dụng nhiều hình tượng sâu sắc và ý nghĩa.
- Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại giúp thể hiện tính cách, tâm trạng của nhân vật.
- Nghệ thuật tự sự đã có sự phát triển vượt bậc.
- Nghệ thuật kể chuyện kết hợp với việc miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và tâm lý con người: tả cảnh tình yêu, sử dụng biểu tượng ước mơ…
Dàn ý phân tích ý nghĩa nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều
1. Mở đầu
Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
2. Phần thân
* Ý nghĩa nội dung:
- Ý nghĩa thực tế: Phản ánh hình ảnh xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, xã hội thù hận vật lên quyền sống con người, đặc biệt là phụ nữ.
- Ý nghĩa nhân văn:
- Nhấn mạnh, lên án những sức mạnh xấu xa ngược đãm con người.
- Thể hiện lòng thương cảm, đau xót trước số phận bi thương của con người.
- Khẳng định, ca ngợi tài năng, phẩm chất và hoài bão cao cả của con người: hoài bão về sự sống, tự do, công bằng, mong muốn tình yêu, hạnh phúc.
* Ý nghĩa nghệ thuật: Tác phẩm là sự hoàn thiện của nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại:
- Ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ.
- Với ' Truyện Kiều', nghệ thuật tự sự đã phát triển mạnh mẽ: Nghệ thuật dẫn chuyện, miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách, và tâm lý nhân vật.
3. Tóm tắt
Tổng quan về giá trị của tác phẩm.
Đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật - Mẫu 1
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm thơ tiêu biểu nhất và được xem như bậc thầy trong văn học Việt Nam. Nguyễn Du đã sử dụng chữ Nôm và thể lục bát để sáng tác tác phẩm, bao gồm tổng cộng 3254 câu. Tác phẩm không chỉ có giá trị về nội dung mà còn về nghệ thuật, thể hiện sự sâu sắc và nhẹ nhàng của tác giả.
Trong Truyện Kiều, giá trị nội dung được thể hiện qua việc phản ánh sự thực xã hội và lòng nhân đạo. Tác phẩm phản ánh sự tàn bạo của giai cấp thống trị và sức mạnh áp đặt của tiền bạc, đặc biệt là đối với phụ nữ. Cuộc đời Kiều trở nên đau đớn và nghịch cảnh chỉ vì một lời vu oan. Những bi kịch trong tác phẩm là một lời kêu gọi chống lại bất công xã hội và bày tỏ lòng nhân đạo của tác giả.
Ngoài việc phản ánh xã hội thực tế, Truyện Kiều còn lên án những hành động tàn bạo và việc áp đặt ý chí lên quyền sống của con người. Tác phẩm tố cáo sự tham lam và bất nhân của đồng tiền, và qua đó, thể hiện sự chống lại tổn thương và bày tỏ lòng tự do và công lí.
Tác phẩm cũng là một cuốn ghi chép đầy nước mắt về cuộc đời đầy bi thương của Kiều, người phụ nữ mạnh mẽ nhưng lại trở thành nạn nhân của sức mạnh và bất nhân. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm được thể hiện qua sự đồng cảm sâu sắc với những số phận đau khổ, đặc biệt là của phụ nữ.
Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một bản tình ca về lòng nhân đạo. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng và đồng cảm với những nỗi đau của con người, đặc biệt là của phụ nữ, thông qua cuộc đời của Thuý Kiều. Tác phẩm là một lời kêu gọi chống lại bất công và thể hiện lòng nhân đạo và tin vào hạnh phúc của con người.
'Truyện Kiều” là một biểu tượng của tình yêu tự do và khát vọng công bằng, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người. Nguyễn Du đã truyền đạt ước mơ về một tình yêu trong sáng và chung thủy giữa những ràng buộc nặng nề của xã hội phong kiến. Mối tình của Kim Trọng và Thúy Kiều được coi là một tượng đài của tình yêu đẹp trong văn học dân tộc. Tác phẩm cũng nêu lên khát vọng của công bằng và tự do trong một xã hội bất công và tàn bạo, với nhân vật Từ Hải là biểu tượng của những giá trị đó.
Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật - Mẫu 2
Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được viết bởi Nguyễn Du vào đầu thế kỉ 19 và được coi là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của văn học Việt Nam trung đại. Tác phẩm mang lại nhiều giá trị về cả nội dung và nghệ thuật.
Truyện Kiều là câu chuyện về Thúy Kiều - một cô gái xinh đẹp và tài năng nhưng số phận không may mắn. Từ việc bị bắt oan đến việc phải bán mình để cứu cha, Kiều trải qua nhiều biến cố đau lòng. Tuy nhiên, cuối cùng nàng vẫn tìm được hạnh phúc và công bằng bên người mình yêu.
Giá trị nội dung của Truyện Kiều nằm ở việc phản ánh sự thực xã hội và nhân đạo. Tác phẩm tường thuật cuộc đời đầy bi kịch của Kiều và nhấn mạnh vào việc chống lại sự bất công và tàn ác trong xã hội. Cuộc sống của Kiều bị thay đổi hoàn toàn chỉ vì một lời vu oan, và nàng phải đối mặt với hàng loạt thử thách đau lòng để tìm lại hạnh phúc.
Truyện Kiều đã lòe loẹt sự quý trọng đối với con người. Nguyễn Du đã tạo dựng nhân vật Thúy Kiều từ các yếu tố về vẻ đẹp, phẩm chất, khát vọng và tình yêu chân chính. Tác phẩm cũng biểu hiện sự đồng cảm sâu sắc trước nỗi đau của con người, đặc biệt là phụ nữ. Cuối cùng, câu chuyện ca ngợi tình yêu tự do, khao khát công bằng và tôn vinh vẻ đẹp của con người. Mối tình giữa Kim Trọng và Thúy Kiều đã đi sâu vào lòng người đọc, với sự trung thành và si tình của Kim Trọng gây ấn tượng mạnh mẽ.
Tiếp theo là giá trị nghệ thuật, đặc biệt là về ngôn ngữ. “Truyện Kiều” được đánh giá là một ví dụ xuất sắc về ngôn ngữ. Nguyễn Du đã kết hợp một cách khéo léo giữa ngôn từ thông dụng và ngôn từ cao cả. Nhiều điển tích, tượng trưng được sử dụng để diễn đạt tâm trạng và phẩm chất của nhân vật. Sử dụng từ ngữ tinh tế là một trong những điểm mạnh của Nguyễn Du khi mô tả nhân vật và cảnh vật.
Nghệ thuật tạo hình nhân vật của Nguyễn Du cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng được sử dụng một cách tinh tế. Điều này được thể hiện rõ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Nguyễn Du cũng thành công trong việc tạo dựng tâm trạng cho nhân vật thông qua mô tả cảnh ngụ tình. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một ví dụ điển hình.
“Buồn nhìn cửa biển chiều buông,
Thuyền nào nhỏ nhắn bóng buồm xa xa?
Buồn nhìn dòng nước mới đổ,
Hoa trôi trên sóng, biết về đâu?
Buồn nhìn bên trong cỏ rậm rạp,
Chân trời mênh mông, màu xanh thẳm thẳm.
Buồn nhìn gió cuốn mặt biển,
Tiếng sóng vỗ vùi quanh bến đậu”
Cùng với đó, việc sử dụng thể thơ bát cũng đã góp phần quan trọng trong việc truyền đạt nội dung của tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc mô tả những đặc điểm và tính cách của các nhân vật.
Từ việc phân tích trên, có thể khẳng định rằng, Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng nhiều giá trị về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Tác phẩm này thật sự là một kho tàng quý giá của văn hóa dân tộc.
Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật - Mẫu 3
Phạm Quỳnh đã từng nói: ' Truyện Kiều tồn tại, tiếng Việt vẫn còn. Tiếng Việt còn, đất nước còn'. Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ là một kiệt tác văn chương mà còn là biểu tượng của dân tộc. Tác phẩm này thực sự là một phần không thể thiếu trong văn hóa của chúng ta.
Đầu tiên, mặc dù dựa vào cốt truyện của tiểu thuyết Trung Quốc Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm tài nhân) để sáng tác, nhưng Nguyễn Du đã mang đến một tác phẩm mới với những sáng tạo về nội dung. Truyện Kiều thể hiện hiện thực về xã hội phong kiến Việt Nam với sự bất công, tàn bạo và lòng tham vô đạo của con người, đặc biệt là phụ nữ. Đây là lời kêu gọi chống lại những thế lực ác độc như sai nha, quan xử kiện,... thể hiện lòng tham, sự coi thường tính mạng, phẩm giá con người. Tác phẩm cũng chỉ ra sự tác động tiêu cực của tiền bạc, qua những lời ngọt ngào 'Có ba trăm lạng việc này mới suôn sẻ', qua những lần bị lừa dối vào lầu xanh của Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,... Tất cả đều là do tiền bạc làm thay đổi con người.
Không chỉ có giá trị hiện thực lớn, tác phẩm còn mang những giá trị nhân đạo sâu sắc. Truyện Kiều phê phán, chỉ trích những thế lực ác độc như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,... Tác phẩm cũng thể hiện sự đồng cảm, xót xa của Nguyễn Du trước số phận đau buồn của con người: 'Thương một bông hoa nở sớm/ Con ong đã chỉ đường mình về', sau này ông thốt lên: 'Đắng đo phận đàn bà/ Lời nói bạc mệnh cũng là lời chung'. Thúy Kiều là một người con gái tài năng và xinh đẹp nhưng số phận của nàng lại đầy gai góc, bắt đầu với việc phải vâng lời cha để rồi sau bao sóng gió, nàng lại lẻ loi một mình. Càng đau đớn bao nhiêu, nhà thơ càng khẳng định và tôn vinh tài năng, nhân phẩm cũng như khát vọng chân chính của con người: quyền sống, tự do, công bằng, tình yêu, hạnh phúc. Tình yêu của Kiều vượt lên trên những ràng buộc xã hội và thái độ tích cực của người phụ nữ khi yêu: 'Đào đào đi vườn đêm một mình' thể hiện khao khát tình yêu của con người cũng như hình ảnh của Từ Hải là ước mơ của tác giả về một xã hội công bằng,... Với những giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả đó, chủ nhân Mộng Liên Đường đã từng khen Nguyễn Du là người 'có cái nhìn sâu xa, có trái tim suy tư vạn đời'.
Không chỉ có những điểm nổi bật về nội dung mà Truyện Kiều còn mang những đặc điểm sáng tạo độc đáo về nghệ thuật. Tác phẩm là kết quả của sự tiến bộ nghệ thuật trong văn học dân tộc ở mọi khía cạnh. Về thể loại, tác phẩm được viết theo hình thức một truyện thơ Nôm với thể thơ lục bát quen thuộc. Về ngôn ngữ, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm với sự kết hợp linh hoạt với các câu ca dao, thành ngữ quen thuộc. Nghệ thuật trong Truyện Kiều đã có bước phát triển vượt bậc: Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách, mô tả tâm trạng của nhân vật. Trong việc xây dựng nhân vật, Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ độc thoại để tả nội tâm và ngôn ngữ đối thoại để hiện thực hóa tính cách, tình huống của nhân vật. Với những nhân vật chính diện, tác giả sử dụng ngôn từ ước lệ, tượng trưng quen thuộc từ thơ trung đại; với nhân vật phản diện, ông thường sử dụng ngôn từ bình dân tả thực. Ngoài ra, ông còn có những phương pháp miêu tả cảnh với bút pháp tả cảnh sống động, giúp nhân vật thể hiện cảm xúc, tâm trạng một cách gián tiếp. Tất cả đã tạo nên một ' Truyện Kiều' đặc sắc về hình thức thể hiện.
Với những đóng góp lớn về nội dung và nghệ thuật, Truyện Kiều xứng đáng được coi là kiệt tác văn học của dân tộc. Thời gian trôi đi nhưng thơ, văn, tuyệt tác sẽ luôn tồn tại mãi. Và 'Truyện Kiều' cũng vậy.
Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật - Mẫu 4
Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa toàn cầu, được coi là một thi sĩ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều là tác phẩm vĩ đại của ông, là sự kết hợp hoàn hảo giữa giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đọc các đoạn như “Chị em Thúy Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, chúng ta có thể cảm nhận được sự thương cảm của tác giả dành cho số phận đau khổ của Thúy Kiều cũng như cho số phận của phụ nữ trong xã hội thời đó.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ qua tình cảm nhân từ với người phụ nữ bất hạnh. Trong đoạn “Mã Giám Sinh mua Kiều”, Nguyễn Du đã diễn đạt một cách tài tình lòng nhân từ của mình đối với nhân vật Thúy Kiều. Thúy Kiều là một người con hiếu thảo. Trong hoàn cảnh khó khăn, nàng quyết định hy sinh bản thân mình để chuộc lại cha và em gái.
Bằng cách sử dụng ngôn từ đầy ảm đạm, tác giả đã làm nổi bật sự tủi hổ, nhục nhã, và khổ đau của Kiều khi bị coi thường như một món hàng. Một người con gái tài năng và đức hạnh như Kiều lại phải trở thành một món hàng để bán. Thậm chí hơn nữa, họ còn “Cò kè bớt một thêm hai”. Nguyễn Du đã thấu hiểu và chia sẻ nỗi đau đớn của Kiều khi Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”.
Đó chính là một minh chứng cho tư duy nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm. Đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một ví dụ tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về nỗi đau, nỗi nhớ thương, nỗi cô đơn và nỗi lo sợ của Thúy Kiều. Buộc phải bán mình để chuộc cha, để cứu em gái, Kiều đã rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú Bà.
Kiều không muốn phục vụ cho các đấng quyền quý trong làng mà cô đã chọn tự tìm kiếm cái chết. Tuy nhiên, cô đã được cứu sống. Tú Bà, lo lắng cho sự sống của Kiều, đã quyết định không để cô chết. Thậm chí cô còn nói rằng “Thôi thôi, để cô sống tiếp đi, đừng để mất mát thêm vào số phận cô”. Vì vậy, cô đã làm mọi cách để cô sống và đưa cô đến lầu Ngưng Bích để tìm một nơi ẩn náu tử tế để cô có thể kết hôn. Tuy nhiên, thực tế là lầu Ngưng Bích chính là nơi giam cầm Thúy Kiều, nơi khóa chặt tuổi thanh xuân của cô. Đây cũng là điểm khởi đầu cho những cảm xúc của Kiều, đầy đau thương và bất hạnh.
Nguyễn Du viết nhưng như nhỏ lệ khi diễn đạt cảnh vật qua cảm xúc của Thúy Kiều. Trong cảnh thiên nhiên vắng lặng, cô chỉ thấy “bốn bề bát ngát xa xa”. Một cảm giác cô đơn, buồn bã và bẽ bàng chiếm lĩnh tâm hồn cô. Cô thương xót cho số phận và số mệnh của mình:
Mây sớm và đèn khuya bừng lên
Nửa tình, nửa cảnh, như chia tấm lòng.
Có lẽ đó cũng chính là nỗi đau lòng của tác giả dành cho những người phụ nữ tài sắc nhưng bất hạnh như Thúy Kiều? Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở chỗ tác giả tôn vinh vẻ đẹp ngoại hình cũng như phẩm chất của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều. Trong đoạn “Chị em Thúy Kiều”, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều bằng những từ ngữ tuyệt vời. Miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du thể hiện sự trân trọng: Vân trông trang nghiêm khác biệt.
Hai từ “trang nghiêm” diễn tả vẻ đẹp sang trọng, quý phái của Thúy Vân. Vẻ đẹp trang nghiêm, đoan trang của thiếu nữ được so sánh với những điều cao quý trên đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Tác giả sử dụng hình ảnh thiên nhiên đặc biệt đẹp, trong trắng, tinh khiết, lấp lánh để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân.
Gương mặt nàng sáng như ánh trăng. Nụ cười tươi như hoa. Tiếng nói êm ái như ngọc ngà. Mái tóc mềm mại, duyên dáng hơn cả mây trời. Màu trắng của tuyết không thể sánh bằng làn da trắng của Thúy Vân. Ngay cả thiên nhiên cũng phải chịu thua trước vẻ đẹp của nàng.
Bằng cách dùng so sánh và ẩn dụ nghệ thuật, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp trung thực, phúc hậu và quý phái của cô gái. Bức chân dung của Thúy Vân mang tính biểu tượng về số phận, vẻ đẹp của cô tạo ra sự yên bình, hòa mình với môi trường xung quanh. Điều này dự báo cuộc đời của cô sẽ êm đềm và hạnh phúc. Nguyễn Du chỉ có thể mô tả như vậy nhờ vào sự yêu thương và trân trọng vẻ đẹp.
Ca ngợi Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ ca ngợi vẻ đẹp bề ngoại mà còn khen ngợi vẻ đẹp tinh thần và tài năng của cô. Giống như khi mô tả Thúy Vân, câu thơ đầu tiên đã tóm tắt đặc điểm của nhân vật: “Kiều vừa sắc sảo, vừa mặn mà”. Cô thông minh về trí tuệ, đầy quyến rũ về tâm hồn và tình cảm. Khi mô tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn sử dụng hình ảnh nghệ thuật tinh tế như “nước thu” (nước mùa thu), “núi xuân” (núi mùa xuân), hoa, cỏ.
Tác giả mô tả vẻ đẹp của một phụ nữ lý tưởng bằng cách tạo ra một ấn tượng tổng quan. Khi vẽ bức chân dung của Thúy Kiều, tập trung vào việc mô tả vẻ đẹp của đôi mắt, bởi vì đôi mắt là cách thể hiện sâu sắc về tâm hồn và trí tuệ. Sự thông minh của trí óc, và sự cuốn hút của tâm hồn đều được phản ánh qua đôi mắt. Hình ảnh “dòng nước mùa thu” - một dòng nước mùa thu nổi sóng - tạo ra vẻ đẹp sống động của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt.
Còn hình ảnh “núi xuân” - nét núi mùa xuân - mang lại hình ảnh của đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung. Khi miêu tả Thúy Vân, tác giả tập trung vào việc mô tả vẻ đẹp bên ngoài mà không nhấn mạnh vào tài năng và tình cảm của cô. Tuy nhiên, khi mô tả Kiều, nhà thơ sử dụng một phần để mô tả vẻ đẹp và hai phần để mô tả tài năng của cô.
Tài năng của Kiều là lý tưởng, theo quan điểm thẩm mỹ phong kiến, bao gồm cả: âm nhạc, văn chương, hội họa. Đặc biệt, tài năng chơi đàn của cô đã vượt lên trên tất cả: “Cung thương làm sạch năm âm. Nghề riêng đè bẹp dàn hồ cầm một tấc”. Nhấn mạnh vào tài năng của Thúy Kiều cũng là để ca ngợi cái tâm hồn đặc biệt của cô. Việc sáng tác âm nhạc của Thúy Kiều là sự ghi chép lại tiếng lòng của một trái tim đầy xúc động và bi kịch.
Vậy, vẻ đẹp của Thúy Kiều không chỉ là sự kết hợp của sắc – tài – tình. Tác giả đã dùng thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để mô tả cô. Sắc đẹp của Thúy Kiều có thể khiến người ta say mê đến mức không còn nhận ra môi trường xung quanh. Bức chân dung của Thúy Kiều cũng là biểu tượng của số phận. Vẻ đẹp của Kiều khiến cả thiên nhiên cũng phải ghen tỵ, ghen ghét, báo hiệu rằng số phận của cô sẽ gặp phải nhiều gian truân, khổ đau.
Chỉ có trái tim đầy yêu thương mới có thể nhìn thấy được vẻ đẹp của những người bất hạnh và khen ngợi họ. Tình cảm xót thương, sự trân trọng về vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều giúp ta hiểu được giá trị nhân đạo được thể hiện qua các đoạn trích này trong tác phẩm Truyện Kiều nói chung.
Giá trị nhân đạo còn được thể hiện qua sự khinh bỉ, căm ghét của tác giả đối với những kẻ “buôn thịt bán người”, như tên “sinh viên” họ Mã. Tác giả đã tiết lộ bộ mặt xấu xa, đê tiện của tay buôn người đội lốt sinh viên trường Quốc Tử Giám qua một loạt chi tiết mô tả sự lỗ mãng, dị hợm của hắn. Mặc dù đã “ngoại tứ tuần” nhưng vẫn ăn mặc bảnh bao, mày râu nhẵn nhụi không phù hợp với tuổi của hắn:
“Tuổi trẻ ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.”
Về hành động, cử chỉ lại cho thấy bản chất của một tên thiếu học thức, vô phép tắc: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”. Chỉ từ từ “tót”, Nguyễn Du như đánh vào mặt con buôn bằng hình ảnh: “Cò kè bớt một thêm hai”.
Gặp gia đình đang gặp tai biến cần sự giúp đỡ, một “sinh viên” như hắn nên có tấm lòng đồng cảm, xót xa và ra tay giúp đỡ, nhưng hắn đã không làm như vậy. Bức tranh về kẻ buôn người đã được Nguyễn Du vẽ một cách rõ ràng nhất. Mô tả nhân vật Mã Giám Sinh cũng là sự phản ánh của tác giả đối với kẻ đại diện cho xã hội tiền bạc, một xã hội mà tiền đã phủ nhận mọi giá trị đẹp của cuộc sống - 'Trong ta đã sẵn đồng tiền; Dễ dàng đổi trắng thay đen khó gì”.
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện sự cảm thông, xót xa về thân phận của phụ nữ, khen ngợi vẻ đẹp của con người và lên án xã hội tàn bạo, lừa dối mà các đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã Giám Sinh mua Kiều là ví dụ. Thông qua đó, chúng ta cũng nhìn thấy trái tim nhân đạo bao la của tác giả. Nguyễn Du và “Truyện Kiều” sẽ sống mãi với thời gian.
Phân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều
Trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến với mặt bóng của những kẻ thống trị tàn bạo. Sức mạnh của tiền bạc khiến cho những người phụ nữ khốn khổ trở thành món hàng cho bọn buôn phấn bán hương trong xã hội.
Gia đình nhà Vương đang sống hạnh phúc nhưng lại bị một người bán tơ vu oan giá họa tai ương, làm cho một gia đình hạnh phúc trở thành nạn nhân của sự oan trái. Sau biến cố, các quan chức tham nhũng đã lợi dụng cơ hội để cướp của nhà Thúy Kiều. Những quan chức này cùng với một số quan lại tham ô, vơ vét tiền của dân.
Sức mạnh của tiền bạc nặng tựa ngàn cân nằm trong tay kẻ tàn bạo, tiền bạc trở thành một thế lực mạnh mẽ có thể chi phối mọi giá trị đạo đức của con người, làm mất lương tri của họ. Những người đảm nhận trách nhiệm giúp đỡ người dân lấy lại đạo đức lại bị tiền bạc bẻ cong. Cuộc sống của những người phụ nữ tài sắc đau khổ, mười phân vẹn mười Thúy Kiều dùng sức mạnh, quyền lực để thu hút tiền bẩn.
Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều thể hiện sự đánh giá cao của tác giả Nguyễn Du về con người từ phẩm chất, tài năng, ngoại hình cho đến những ước mơ chân thành. Thúy Vân được mô tả có vẻ đẹp thanh khiết, đoan trang, hiền lành, sống cuộc sống hạnh phúc bình yên. Thúy Kiều có vẻ đẹp sắc sảo, mang vẻ đẹp dịu dàng và thẹn thùng.
Thúy Kiều cũng là một người tài năng xuất chúng. Thường thì phụ nữ đẹp không thông minh, nhưng Nguyễn Du đã tạo ra Thúy Kiều với nhiều ưu điểm hiếm thấy. Vương Thúy Kiều có tài năng thi họa và sắc đẹp mặn mà. Với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
Qua nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du phê phán chế độ phong kiến tàn bạo áp đặt lên con người, lên quyền hưởng hạnh phúc của những người phụ nữ tài sắc. Vương Thúy Kiều phải trải qua mười lăm năm lưu lạc, chịu nhiều khổ cực, sống không bằng chết. Dù đã cố tự vẫn nhiều lần nhưng vẫn được giải cứu.
Từ một cô gái con nhà tiểu thư kiêu hãnh, Thúy Kiều trở thành một công cụ bị bán, bị gạt, trao đổi, và bị hành hạ. Cuộc đời Thúy Kiều là một bản cáo trạng tố cáo tội ác của xã hội xưa. Chính xã hội không công bằng đã đẩy người phụ nữ tài sắc, hiền lành, hiếu nghĩa vào hoàn cảnh khó khăn, mất hạnh phúc của cuộc đời, bị coi thường, bị lăng nhục.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện lòng thương cảm của mình đối với nỗi đau của con người, đặc biệt là số phận của phụ nữ như Thúy Kiều. Tác phẩm của ông còn ghi dấu sâu trong lòng độc giả với giá trị nghệ thuật và nhân đạo. Ông đã thể hiện sự tài hoa và tinh tế trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác vĩ đại, với bút pháp của một thi sĩ thiên tài, thể hiện thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm này phản ánh thực tế và giá trị nhân đạo, tố cáo tội ác của chế độ phong kiến và sự lợi dụng thân xác phụ nữ.
Nguyễn Du thể hiện sự đồng cảm của mình với phụ nữ công dung, tài sắc vẹn toàn, những người phải chịu nhiều khổ cực trong cuộc sống. Họ xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc nhưng lại phải trải qua nhiều bất hạnh, lưu vong.