Đề bài
Giá trị thực tiễn và giá trị nhân văn của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
Lời giải chi tiết
Văn xuôi trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) thật sự là một quá trình thử nghiệm, tìm kiếm sự phù hợp mới giữa nghệ thuật và cuộc sống. Trong thời gian ngắn đó, số lượng tác phẩm còn lại không nhiều, đặc biệt là trong hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Chúng ta đặc biệt trân trọng những tác phẩm kết tinh của chặng đường văn học đặc biệt này, trong đó có truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
'Vợ chồng A Phủ' không chỉ là một thành tựu hiếm hoi của văn xuôi trong kháng chiến, mà còn ghi dấu sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong việc thể hiện đề tài miền núi, một đề tài vẫn còn nhiều điều mới lạ với bạn đọc. Truyện được tổ chức chặt chẽ, dẫn dắt rất tự nhiên, không cần chạy theo những chi tiết li kì mà vẫn có sức hút mạnh mẽ. Điều đó chính là nhờ vào cái nhìn sắc bén về hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo tích cực của nhà văn. Sự thể hiện cuộc sống của hai nhân vật trung tâm từ bóng tối, đau khổ, ô nhục vươn ra ánh sáng của tự do và nhân phẩm đã chứng minh rất rõ điều đó.
Cô Mị, xinh đẹp và chăm chỉ nhưng nghèo khổ, có thể nói là 'khổ từ trong trứng'. Bố mẹ nghèo, hôn nhân không có tiền mà phải vay mượn. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu, nợ chuyển sang Mị. Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu để 'gạt nợ'. Mà quan trên muốn thì dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, ép cướp Mị về. Không cần cưới hỏi, không cần tình yêu, mọi thứ vẫn hợp pháp. Ai dám bênh vực Mị! Ngòi bút hiện thực của Tô Hoài đã phanh trần bản chất bóc lột giai cấp sau những phong tục tập quán. Cô Mị, dù được gọi là con dâu nhưng thực ra là một nô lệ, thứ nô lệ không phải mua mà lại bị bóc lột, hành hạ. Mị ở nhà chồng như ở trong địa ngục. Không có tình thương, không sự chia sẻ giữa vợ chồng, chỉ có những ông chủ độc ác, thô bạo và những nô lệ sống âm thầm, tăm tối. Dần dần, Mị cũng quên mất chính mình.
Suốt ngày 'Mị lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa', lúc nào cũng có mặt, thế giới của Mị thu hẹp trong một cái ô cửa sổ 'mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay nắng'. Kết quả của hoàn cảnh sống thật đau lòng: 'ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi', cố nhẫn nhục, cam chịu đến nỗi mất hết ý thức: 'là con trâu con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa này sang ở cái tàu ngựa khác, con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết làm mà thôi'. Ai có thể ngờ cô gái trẻ trung, yêu đời ngày xưa lại bị cuốn vào vòng xoáy u tối như vậy. Quả thật, hoàn cảnh quyết định tính cách. Nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực được nhà văn tuân thủ nghiêm ngặt. Sự yếu đuối của kẻ nô lệ, sự tàn bạo vùi dập của bọn bóc lột tất sẽ dẫn đến cảnh bi kịch đó. Nỗi khổ của cô gái Mèo này có thể so sánh với nỗi khổ của Chí Phèo khi 'đánh mất cả nhân tính lẫn nhân hình' (Thực ra, Chí Phèo còn có lúc nghênh ngang, còn doạ nạt được người khác). Nếu coi giá trị hiện thực của một tác phẩm là sự phản ánh chân thực cuộc sống, thì Vợ chồng A Phủ quả là bản tố tụng rực rỡ về nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ bóc lột phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền. Tâm trạng nơm nớp lo 'con ma nhà thống lí' đã thấu hiểu về bản thân mình từ khi bị đưa về 'cúng trình ma', một ám ảnh đè nặng suốt cuộc đời Mị (ngay cả khi cô đã trốn thoát khỏi Hồng Ngài). Xem thế đủ thấy bọn thống trị cao tay đến nhường nào trong nghệ thuật 'ngu dân' để dễ dàng kiểm soát.
Nhà văn đã không ngần ngại cung cấp cho người đọc những chi tiết có giá trị bóc trần bản chất xã hội không nhân đạo. Ở đó, thân phận người nghèo mong manh bất ổn như thế nào! Ta trầm trồ trước cảnh cô Mị lặng lẽ ngồi bên lửa trong những đêm đông lạnh, thằng chồng về khuya tay ngứa muốn đánh Mị ngã. Lại còn hình ảnh đau lòng người con gái bị trói đứng vào cột trong buồng tối chỉ vì muốn đi chơi giống như bạn bè. Sự bất lực của Mị rõ ràng theo dòng nước mắt chảy trên khuôn mặt, trên môi mà không có cách nào để lau đi.
Các chi tiết như vậy đã mở rộng bức tranh hiện thực và làm cho nó trở nên sinh động hơn. Sự xuất hiện của nhân vật chính A Phủ cũng tạo ra thêm tình huống để hoàn thiện bức tranh đó. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thực sự là một sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc sống của Mị. Lý do mà thống lí Pá Tra ép Phủ phải làm người ở không công không phải là vì những cuộc đánh nhau thường xuyên. Vấn đề là: quyền lực thuộc về ai? Khi người phát đơn kiện cũng là người ngồi trên ghế quan toà, thì nói gì đến công lí! Đó là lý do vì sao có một tình huống xử kiện kỳ lạ nhất trên đời mà chúng ta được chứng kiến trong nhà thống lí. Kết quả là người con trai khoẻ mạnh, tự do vì công bằng nhưng cuối cùng phải trả giá cho cuộc sống của mình vì nhà thống lí.
Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A Phủ không thể không gợi lên những hình ảnh của Chí Phèo, chị Dậu và những thím Tường Lâm... Tất cả đều là những tác phẩm nghệ thuật châm biếm từ cuộc sống đau khổ trong xã hội.
Tuy nhiên, chỉ đơn giản là phê phán thông qua những cảnh bi thảm của người lao động không đủ để đánh giá giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tô Hoài đã khám phá ra con đường tất yếu mà các nhân vật của ông phải đi qua. Sự đè nén quá nặng, đau khổ chồng chất sẽ đẩy kẻ khốn cùng tới sự chống lại. Nếu gặp được ánh sáng, họ sẽ đến được thắng lợi. Tô Hoài đã chỉ ra sự hợp lý của quá trình phát triển nhân cách ở Mị. Dù bị tê liệt lâm hồn, nhưng sự đánh thức vẫn có thể đến. Tiếng sáo đã gọi Mị tỉnh thức, làm cho cô nhớ lại tuổi trẻ tươi đẹp và khát khao hạnh phúc. Đó là phép màu đơn giản nhưng mạnh mẽ.
Tô Hoài đã tái hiện chân thật cuộc hành trình từ đau khổ, tối tăm đến ánh sáng cách mạng của người lao động dưới chế độ cũ. Tác phẩm giúp độc giả nhận thức đúng về con đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Ngoài ra, giá trị hiện thực của truyện còn được tăng cường bằng màu sắc địa phương đậm nét và bản sắc tâm hồn độc đáo của các nhân vật. Mặc dù cùng chung số phận, nhưng diễn biến tâm lí của Mị và A Phủ lại rất khác nhau.
Bất kỳ tác phẩm văn học nào cũng thể hiện thái độ của nhà văn với cuộc sống, đặc biệt là với con người. Giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ đã khơi dậy trong chúng ta sự nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài. Tác phẩm đặt ta vào tư duy của một người cáo tố về xã hội cũ, đồng thời tạo ra sự cảm thông, đau xót. Khi miêu tả buổi ăn thề của A Châu và A Phủ, ông mang lại niềm tin vào một tương lai tươi sáng cho những người bị bóc lột.
Thực ra, rất khó phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm như Vợ chồng A Phủ. Thỉnh thoảng, hiện thực và nhân đạo trở nên khó phân biệt. Cần phải nhấn mạnh tính chân thực, chính xác, lôgic trong các mô tả tâm lí. Tuy nhiên, để hiểu biết và đánh giá tinh tế tâm hồn con người, ta cần phải thông cảm, tôn trọng và quý trọng.
Tô Hoài đã đánh giá cao sự trưởng thành của Mị và A Phủ. Cái nhìn của ông về họ là tích cực và nhân đạo. Ông cảm thông với nỗi đau của họ và tôn trọng ý chí tự giải thoát và tự quyết định đời sống của họ. Chính cái nhìn ấy đã tạo nên giá trị của tác phẩm.