Đọc lại văn bản Cây diêm cuối cùng trong Ngữ văn 11, tập hai (tr. 60 - 63) và trả lời các câu hỏi:
Câu 1
Câu 1 (trang 13, sách bài tập Ngữ Văn 11, tập hai):
Bạn tin rằng câu chuyện được kể trong văn bản là có thật không? Tại sao?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản để xác định tính chân thực của câu chuyện.
Lời giải chi tiết:
- Câu chuyện được kể trong văn bản có nhiều chi tiết lạ lùng: không gian và hoàn cảnh đối mặt của hai người lính thuộc về hai phe khác nhau; cảnh ngộ mà hai người lính cùng trải qua khiến họ phải có sự phối hợp với nhau mới mong tìm được con đường sống; tình cảnh khó khăn khi phải nhóm lên ngọn lửa một cách đầy thách thức trong khi chỉ còn một cây diêm cuối cùng; người lính của phe kia chết trong vòng tay của “tôi” – người của phe đối địch; sau chiến tranh, “tôi” đã xây lại ngôi chùa hoang trên chính mảnh đất xưa;... Rõ ràng, câu chuyện không phản ánh một sự thật của cuộc sống, mà là kết quả của sự hư cấu.
Câu 2
Câu 2 (trang 13, sách bài tập Ngữ Văn 11, tập hai):
Theo bạn, vì sao văn bản này có thể xếp vào thể loại tản văn?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ văn bản để chỉ ra đặc điểm thể loại tản văn.
Lời giải chi tiết:
Văn bản kể lại một câu chuyện có tính chất tưởng tượng nhằm thể hiện suy ngẫm, cảm xúc của tác giả về mối quan hệ giữa con người với nhau, về bản chất và biểu hiện của cái thiện, về lương tri của con người,...
Câu 3
Câu 3 (trang 13, sách bài tập Ngữ Văn 11, tập hai):
Nêu mối quan hệ giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình trong văn bản Cây diêm cuối cùng.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn trích để xác định mối quan hệ giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình.
Lời giải chi tiết:
- Văn bản rất giàu yếu tố trữ tình. Điều này thể hiện rõ nhất ở tính chất gợi cảm của câu chuyện, ở những cảm xúc được nhân vật “tôi” bộc lộ. Câu chuyện được kể nhằm khơi dậy ở người đọc những nét đẹp của tình người; nhiều chỗ lời văn bộc lộ tình cảm dồi dào của người viết, ví dụ: “phải chăng lửa đã có sẵn từ lâu, từ muôn thuở trong tim tôi, trong tim của mọi người?”; “Tôi xây chùa không cốt để thờ Phật vì tôi biết Phật đã ở đâu trong tôi ngay từ đêm tôi sống trong chùa hoang”...
- Yếu tố trữ tình luôn được đan xen vào những chi tiết của câu chuyện. Điều đó tạo nên mối quan hệ gắn kết hữu cơ giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình cho tác phẩm.
Câu 4
Câu 4 (trang 13, sách bài tập Ngữ Văn 11, tập hai):
Chỉ ra một số hình ảnh có màu sắc ẩn dụ và mang tính biểu tượng trong văn bản.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn trích để chỉ ra một số hình ảnh có màu sắc ẩn dụ và mang tính biểu tượng trong văn bản.
Lời giải chi tiết:
Văn bản chứa đựng nhiều hình ảnh ẩn dụ và mang tính biểu tượng. Chẳng hạn hình ảnh ngôi chùa (biểu tượng của cái thiện); cây diêm cuối cùng (thể hiện những thử thách khắc nghiệt đối với tình người); mảnh giấy có bài thơ của người lính phe kia được dùng để nhóm lửa (ẩn dụ về quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống);...
Câu 5
Câu 5 (trang 13, sách bài tập Ngữ Văn 11, tập hai):
Nêu ý nghĩa và vai trò của đoạn văn cuối đối với văn bản.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ đoạn văn để nêu ý nghĩa và vai trò của đoạn văn cuối với văn bản.
Lời giải chi tiết:
Ý nghĩa của đoạn văn cuối được đúc kết trong câu: “Tôi xây chùa không cốt để thờ Phật vì tôi biết Phật đã ở đâu trong tôi ngay từ đêm tôi sống trong chùa hoang”. Ước vọng từ bỏ bạo lực, hoá giải hận thù; sống với nhau bằng tình thương, lan tỏa thông điệp của lòng vị tha; những gì văn bản muốn nói với người đọc được thể hiện rõ nét, cô đọng ở đoạn cuối này.