Câu 1
Câu 1 (trang 17, vở bài tập Ngữ Văn 11, tập một):
Em hiểu như thế nào về đề tài Duyên thế?
Phương pháp giải:
Dựa vào nội dung của đoạn trích cũng như những tìm hiểu trong tài liệu tham khảo, sách báo… để giải thích đề tài.
Lời giải chi tiết:
Đề tài Duyên thế thể hiện được nội dung của đoạn trích.
Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng là do “xót tình máu mủ” (tình chị em chứ không phải vì “lời nước non” (tình yêu), do vậy nàng chỉ có thể duyên thế cho em còn tình yêu - rất riêng và thiêng liêng - nàng không thể duyên thế. Thúy Kiều dành chữ tình ho một người duy nhất là Kim Trọng và Kim Trọng đối với Thúy Kiều cũg vậy. Duyên thế, thực chất là Kiều nhờ Vân lấy Kim Trọng để “trả nghĩa” chứ không phải vì tình yêu. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du luôn dùng chữ duyên khi nói về quan hệ Thúy Vân - Kim Trọng và dành chữ tình để nói về tình yêu Kim - Kiều: “Duyên em dù nối chỉ hồng”, “Càng âu duyên mới, càng đào tình xưa.”
Câu 2
Câu 2 (trang 17, vở bài tập Ngữ Văn 11, tập một):
Đâu là chủ đề chính của đoạn trích Duyên thế?
Phương pháp giải:
Đọc và phân tích nội dung đoạn trích Duyên thế, chú ý vào những tình tiết chính để có thể xác định được chủ đề chính của đoạn
Lời giải chi tiết:
Đoạn trích Duyên thế tập trung nói tới cảnh Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng hay nói cách khác Thúy Kiều duyên thế của mình để nhờ cậy Thúy Vân. Khi duyên thế cho Thúy Vân, Kiều đau đớn, tủi nhục khôn xiết; đây có thể nói là bi kịch tình yêu tan vỡ của Thúy Kiều.
→ Đáp án đúng: C. Bi kịch tình yêu tan vỡ.
Câu 3
Câu 3 (trang 17, vở bài tập Ngữ Văn 11, tập một):
Thúy Kiều đã thuyết phục Thúy Vân như thế nào khi “duyên thế” để Thúy Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng.
Phương pháp giải:
Trong đoạn trích Duyên thế, cần chú ý vào đoạn hội thoại khi Thúy Kiều mở lời nhờ cậy em thay mình đáp nghĩa với Kim Trọng để có thể thấy được Thúy Kiều đã thuyết phục Thúy Vân những gì để Thúy Vân thay nàng trả nghĩa Kim Trọng
Lời giải chi tiết:
Khi thuyết phục Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Thúy Kiều vừa ràng buộc Thúy Vân bằng tình chị em, vừa khẩn cầu Vân giúp mình. Thúy Kiều ràng buộc Thúy Vân bằng “tình máu mủ” vì trong cơn gia biến “sóng gió bất kì” Vân phải có trách nhiệm của một thành viên trong gia đình. Hơn nữa, Kiều không thể cùng một lúc làm tròn bổn phận cả bên tình và bên hiếu.
Kiều khẩn cẩu Vân giúp mình vì nàng hiểu hoàn cảnh khó xử của cô em gái khi phải thay chị lấy người mà chị từng yêu say đắm, thiết tha. Sự khẩn cầu của Kiều thể hiện qua cả lời nói và hành động: “Cậy em em có chịu lời/ Ngồi đây cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Trong bao nhiêu từ diễn đạt sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền….Kiều đã dùng từ “cậy”. Phải chăng chỉ từ “cậy” mới hàm chứa cả hai ý nhờ và tin: chị mang ý nhờ em và tin tưởng em sẽ giúp? Trong khi các từ nhờ, mượn, phiền…chỉ mang ý nhờ vả mà không bao hàm ý tin tưởng vào sự nhờ vả. Tại sao là “chịu lời” mà không phải là “nhận lời”? Tại sao “chịu lời” trước rồi mới “thưa” sau? Nếu Kiều “thưa” trước, trình bày sự việc trước thì chắc gì Vân đã chịu lời. Nói “nhận lời” nghĩa là người được nhờ đã biết sự việc, đã có ý kiến của người nhận, có sự tự nguyện của người nhận. Do vậy, phải là “chịu lời” vì đây là việc Kiều chủ động nài ép Vân, đưa Vân vào hoàn cảnh không nhận không được. Là chị của Vân nhưng Kiều dùng những từ ngữ thể hiện mình là người ở dưới đang nhờ vả: ngồi lên, lạy, thưa. Điều này càng làm cho Thúy Vân khó bề thoái thác.
Vừa ràng buộc, vừa thuyết phuc, ràng buộc nhưng vẫn khẩn cầu, Thúy Kiều đã đạt được mục đích: nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Câu 4
Câu 4 (trang 17, sách bài tập Ngữ Văn 11, tập một):
Việc Thúy Kiều để lại những kỉ vật của tình yêu có ý nghĩa gì?
Phương pháp giải:
Dựa vào những phân tích nội dung của đoạn trích để từ đó đưa ra những ý nghĩa sâu sắc về việc Thúy Kiều để lại những kỉ vật của tình yêu cho Thúy Vân
Lời giải chi tiết:
Ý nghĩa của việc Thúy Kiều để lại những kỉ vật của tình yêu:
- Bằng cách để lại những kỉ vật, Thúy Kiều muốn hiện diện trong tình yêu, nhận được sự đồng cảm của Kim Trọng. Sau khi nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng, với tình yêu, Kiều là người bạc mệnh nhất. Kiều để lại những kỉ vật thiêng liêng và đẹp đẽ của tình yêu: “Chiếc vành với bức tờ mây”, “Phím đàn với mảnh gương nguyền ngày xưa”, Khi nhìn thấy kỉ vật, Kim Trọng sẽ nhớ về Kiều, hiểu nỗi lòng của Kiều. Thúy Kiều muốn hiện diện trong tình yêu và con đường thứ nhất để nàng trở về là để lại kỉ vật. Nhưng con đường này bế tắc, vì hai điều: kỉ vật của tình yêu là riêng và thiêng liêng, bây giờ thành “của chung” ba người: Kim Trọng, Thúy Kiều, Thúy Vân. Tình yêu là riêng và thiêng liêng nên không thể san sẻ cho người thứ ba, dù người ấy làm em gái. Lại nữa, kỉ vật gợi về quá vãng tươi đẹp trong khi hiện tại đau buồn, do vậy bi kịch càng lớn hơn. Vì thế, Thúy Kiều đã tìm đến con đường thứ hai là trở về hiện diện trong tình yêu bằng linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”, Kiều những mong bằng tình sự trở về này nàng sẽ nhận được sự đồng cảm của người thương yêu: “Tưới xin chén nước cho người thác oan”. Nhưng giọt nước mắt của Kim Trọng không thể làm tan mối tình oan khuất của Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về siêu hình, sự trở về không có gặp gỡ, vẫn là “Dạ đài cách mặt khuất lời”. Phải chăng đây cũng là ý nghĩa nhân văn của đoạn trích Trao duyên.
- Cả hai con đường với mong muốn trở về hiện diện trong tình yêu, nhận được sự đồng cảm của người yêu đều bế tắc, nhưng Thúy Kiều vẫn không thôi khát vọng tình yue, vẫn hướng về Kim Trọng, Chính vì vậy, bi kịch của Kiều càng được đẩy lên đỉnh cao nhất.
Câu 5
Câu 5 (trang 17, sách bài tập Ngữ Văn 11, tập một):
Đoạn Trao duyên là lời của Thúy Kiều nói với những ai? Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều qua sự chuyển đổi lời thoại.
Phương pháp giải:
Chú ý vào đoạn Thúy Kiều trao duyên, phân tích nội dung diễn biến tâm trạng nhân vật cũng như những cử chỉ, hành động, sự đối đáp để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Trong đoạn Trao duyên, diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều qua thể hiện qua sự chuyển đổi lời thoại
- Trước hết, có thể thấy trong đoạn Trao duyên, Thúy Kiều nói với Thúy Vân (16 câu thơ đầu, từ “ Cậy em, em có chịu lời” đến “Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên”), tiếp đến, nàng như đang tự nói với chính mình (16 câu tiếp theo, “Mất người còn chút của tin” đến câu “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”); cuối cùng, Kiều hướng tới Kim Trọng (hai câu kết “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”)
- Qua sự chuyển đổi lời thoại, có thể thấy diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều qua ba nấc thang tâm lí:
+ Nói với Thúy Vân, Thúy Kiều muốn nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Việc nhờ Vân trả nghĩa đã xong, Kim Trọng sẽ “nên vợ nên chồng”, vì thế trong tình yêu, Thúy Kiều là người bạc mệnh nhất. Nàng mong muốn được trở về hiện diện trong tình yêu và nhận được sự đồng cảm của Kim Trọng. Tuy nhiên, con đường trở về hiện diện trong tình yêu bằng kỉ vật là bế tắc như đã phân tích ở Câu hỏi 4).
+ Đang nói với Thúy Vân, do quá đau khổ, Kiều như quên đi sự hiện diện của Vân và lời của nàng như tự nói với chính mình. Nàng tự bộc lộ nỗi niềm tâm trạng trước hiện thực phũ phàng: lòng vẫn mang nặng lời thề, tình yêu tan vỡ, thân phận khổ đau. Qua lời Kiều như nói với mình, có thể thấy nàng đang bị ám ảnh bởi cái chết, vì với nàng cuộc đời là trống trải, là vô nghĩa khi tình yêu không còn nữa.
+Tình yêu tan vỡ, người mà Kiều thương cảm nhất chính là Kim Trọng. Chính vì vậy, đang tự nói với chính mình, Kiều đã hướng về Kim Trọng, gửi lời vĩnh biệt tới chàng Kim Trọng trong sự đau khổ tột cùng “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!/ Thoi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
Câu 6
Câu 6 (trang 17, sách bài tập Ngữ Văn 11, tập một):
Những biện pháp nghệ thuật nào được áp dụng khi mô tả tâm trạng nội tâm của nhân vật trong đoạn trích Trao duyên.
Phương pháp giải:
Sau khi đọc và phân tích đoạn trích, chú ý đến những điểm đặc sắc, nổi bật trong cách diễn đạt, cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả tâm trạng nội tâm của nhân vật.
Lời giải chi tiết:
Các biện pháp nghệ thuật sử dụng khi mô tả tâm trạng nội tâm của nhân vật trong đoạn trích Trao duyên:
- Sử dụng thành ngữ “nửa đường đứt gánh” để diễn tả tình yêu đẹp đang bất ngờ tan vỡ, thành ngữ “thịt nát xương mòn” để thể hiện lòng biết ơn.
- Áp dụng ẩn dụ để mô tả tình yêu tan vỡ: “trâm gãy hương tan”, “nước chảy hoa trôi”
- Sử dụng cách diễn đạt hàm hồ để miêu tả tình trạng sau khi chết của người thân: “ngậm cười chín suối”, “Dạ đài cách mặt khuất lời”
- Sử dụng lời nội tâm để mô tả tâm trạng Thúy Kiều (đã phân tích ở Câu hỏi 5)
Câu 7
Câu 7 (trang 17, sách bài tập Ngữ Văn 11, tập một):
Có quan điểm cho rằng trong đoạn trích Trao duyên, dù tình yêu giữa Kim và Kiều tan vỡ nhưng khao khát tình yêu của con người không bao giờ mất! Hãy ghi lại suy nghĩ của bạn về ý kiến này.
Phương pháp giải:
Ghi lại suy nghĩ cá nhân về quan điểm đã được nêu. Tuy nhiên, cần phải làm rõ sự hợp lý của quan điểm cho rằng “với đoạn trích Trao duyên, dù tình yêu giữa Kim và Kiều tan vỡ nhưng khao khát tình yêu của con người không bao giờ mất!”, đồng thời phân tích làm sáng tỏ quan điểm đó.
Lời giải chi tiết:
- Trong đoạn trích Trao duyên, mặc dù tình yêu giữa Kim và Kiều, một mối tình cụ thể, đã tan vỡ.
- Khao khát tình yêu của con người không bao giờ mất:
+ Trong bi kịch tột cùng của tình yêu tan vỡ, dường như Thúy Kiều sẽ buông bỏ trước số phận và duyên phận: “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”, nhưng thực tế, nàng không bao giờ từ bỏ tình yêu, vẫn hướng về Kim Trọng (được thể hiện qua hai câu kết)
+ Trong mười lăm năm lang thang “Hết nạn nọ đến nạn kia/ Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, Thúy Kiều cũng không bao giờ từ bỏ khao khát tình yêu. Tâm trí nàng luôn nhớ và hướng về Kim Trọng
- Sự kết hợp giữa tình cảm trước sự bi kịch của tình yêu tan vỡ và sự đồng cảm, khẳng định khao khát tình yêu của con người đã tạo ra ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong chủ đề tình yêu của kiệt tác Truyện Kiều.