Câu 1
Câu 1 (trang 13, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):
Hãy chỉ ra một số biểu hiện cho thấy Vịnh quê hương thi Hương là một bài thơ Đường luật trào phúng.
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức đã học về thơ Đường luật để trả lời câu hỏi
Câu 2
Câu 2 (trang 13, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):
Phân tích ý nghĩa trào phúng của nghệ thuật sử dụng phép đối, nghệ thuật sử dụng ngôn từ ở hai câu thực và hai câu luận của bài thơ.
Phương pháp giải:
Đọc và phân tích hai câu thực và hai câu luận
Câu 3
Câu 3 (trang 13, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):
Xác định sắc thái giọng điệu của tác giả trong hai câu kết. Qua hai câu kết cũng như cả bài thơ, có thể thấy được thái độ và nỗi lòng của Trần Tế Xương trước tình cảnh đất nước như thế nào?
Câu 4
Câu 4 (trang 13, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):
Theo em, việc kết hợp giữa cảm xúc trào phúng và trữ tình đã giúp nhà thơ thể hiện điều gì?
Phương pháp giải:
Trả lời dựa trên hiểu biết của bạn
Lời giải chi tiết:
Việc kết hợp cảm xúc trào phúng và trữ tình giúp nhà thơ truyền đạt một cách rõ ràng tâm trạng, tình cảm và cảm xúc của mình trước tình hình đất nước. Điều này thể hiện qua sự bi thương, đau đớn. Bài thơ phản ánh nỗi đau đớn của nhà thơ trước hiện thực của đất nước. Tác giả muốn thức tỉnh tinh thần dân tộc trong lòng người Việt Nam, đặc biệt là những người có trí thức, những người có trách nhiệm và khả năng cứu nước, cứu dân.
Câu 5
Em ấn tượng nhất với nhân vật nào trong bài thơ? Tại sao?
Phương pháp giải:
Trả lời theo hiểu biết của em và cung cấp lý do hợp lý
Lời giải chi tiết:
Em ấn tượng nhất với nhân vật sĩ tử tham gia thi vì hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật sự làm nổi bật. Từ 'lôi thôi' được đặt ở đầu câu, tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ, làm cho hình ảnh của 'vai đeo' chụp được cả tư thế và tư cách của những người được xem là những người sĩ, đại diện cho tư tưởng xã hội phong kiến.
Câu 6
Câu 6 (trang 13, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):
Viết một đoạn văn (khoảng 10 – 12 dòng) miêu tả lại cảnh trường thi trong bài Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương, qua đó làm rõ thái độ trọng danh dự và tâm sự lo nước, thương đời của nhà thơ.
Phương pháp giải:
Dựa vào phần phân tích để viết đoạn văn
Lời giải chi tiết:
Dàn ý tham khảo
A. CUỘC THI NĂM ĐINH DẬU
Hai câu đề có tính chất cá nhân, mô tả cuộc thi năm Đinh Dậu:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Tuy có vẻ bình thường bề ngoài, nhưng kì thi mở theo quy định (ba năm mở một khoa) đã phản ánh rõ sự không bình thường ngay từ tổ chức: Trường Nam thi cùng với trường Hà. Trước kia, trường Nam (Nam Định) và trường Hà (Hà Nội) đều tổ chức thi riêng. Đến khoa Đinh Dậu, trường Nam, trường Hà thi chung. Từ “lẫn” - lẫn lộn tùng phèo - đã tiên đoán sự hiện diện của sự hoà nhập, hỗn loạn trong kỳ thi.
B. BỌN SĨ TỬ, QUAN TRƯỜNG MẤT ĐI TÍNH TRANG TRANG, SĨ KHÍ
Hai câu thực và hai câu luận tả cụ thể hơn về những đặc điểm đặc biệt của kỳ thi Đinh Dậu.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
- Hình ảnh sĩ tử không có dáng vẻ trí thức. Họ thật luộm thuộm như những người bình thường: vai đeo lọ. Biện pháp đảo ngữ lôi thôi sĩ tử vừa nhấn mạnh sự luộm thuộm, không gọn gàng, vừa tạo ấn tượng tổng quát về hình ảnh những sĩ tử tham gia kỳ thi này. Họ không có tư thế của những người dự thi, càng không có tư thế của những người kiểm soát trong kỳ thi. Hình ảnh sĩ tử trong thơ Tú Xương phản ánh sự suy giảm về “trạng trang trí trí” do tình hình xã hội nhốt nháo, hỗn loạn mang lại.
- Hình ảnh quan trường xuất hiện với vẻ tự cao, thái độ đe doạ. Sự tự cao của quan trường là một cố gắng tạo ra, một sự tự cao “giả tạo”. Từ ậm oẹ thể hiện âm thanh của tiếng nói to nhưng bị kìm trong cổ họng nên mạnh mẽ nhưng không rõ ràng, đầy biểu hiện cái tự cao không thật sự của quan trường. Cùng với biện pháp đảo ngữ ậm oẹ giọng thét loa của quan trường, có thể nhìn thấy sự huyên náo, hỗn loạn của cảnh thi trường này. Quan phải thét vì sĩ tử không nghe. Sĩ tử không nghe nên quan càng phải cố gắng thể hiện sự tự cao giả dối.
C. HÌNH ẢNH CỦA CÁC THỰC DÂN
- Hình ảnh quan sứ và bà đầm hiện lên trong sự tiếp đón rất hoành tráng: Cờ cắm trên trời. Cách ăn mặc của quan bà đều diễn đạt ra nét kiêu ngạo, lòe loẹt: Váy lê quét đất bà đầm ra. Biện pháp đảo ngữ: Cờ cắm trời quan sứ đến - Váy lê quét đất bà đầm ra cho thấy cờ trước, người sau, thấy váy trước, người sau, càng làm nổi bật sự phô trương về hình thức. Quan sứ, bà đầm xuất hiện có sự tiếp đón hoành tráng nhưng cũng không khác gì một buổi diễn.
- Nghệ thuật đối của thơ Đường được áp dụng một cách hoàn hảo, tạo ra một sức mạnh tấn công dữ dội, quyết liệt, đầy chất độc. Tú Xương đã che đầu quan sứ bằng “cờ” trước “váy” của bà đầm. Với cách đối này, nhà thơ đã làm nhục những kẻ thực dân xâm lược.
- Tất cả hình ảnh của sĩ tử, quan trường, quan sứ và bà đầm trong kỳ thi đều phản ánh sự thiếu tôn nghiêm và có phần lố bịch của kỳ thi Đinh Dậu.
D. NỖI ĐAU VÀ SỰ TỦI NHỤC CỦA TÁC GIẢ
- Hai câu kết thúc bằng một sự thay đổi đột ngột trong giọng điệu, cảm xúc. Sáu câu trước đều mang tính chất châm biếm, trêu ghẹo. Đến hai câu cuối cùng, giọng điệu chủ yếu là trữ tình:
Nhân tài đất Bắc ơi, đâu ai biết được
Quay đầu mà xem xứ sở ruột thịt.
- Hai câu cuối cùng là lời gọi mạnh mẽ, đánh thức ý thức, lương tâm. Câu hỏi không chỉ chỉ đối với những người tham gia kỳ thi Đinh Dậu - nơi tập trung những tài năng của đất Bắc - mà còn mang ý nghĩa tổng quát: tất cả những ai cho rằng họ là “nhân tài của đất Bắc”. Tú Xương nhắc nhở tất cả những nhân tài đó, hãy quay đầu mà xem xứ sở ruột thịt. Nhìn vào xứ sở để nhận ra tình hình quốc gia và nỗi nhục mất nước. Từ việc đặt nước nhà vào cuối bài thơ mang lại một dư âm tha thiết, có tác dụng thức tỉnh tinh thần dân tộc
Câu 7
Câu 7 (trang 13, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 2):
Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
TIẾN SĨ GIẤY
Cũng cờ, cũng biển, cũng cận đại
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!
(Nguyễn Khuyến, in trong Nguyễn Khuyến – Tác phẩm NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984)
a) Bài thơ trên thể hiện nội dung gì, được Nguyễn Khuyến viết vào giai đoạn nào?
b) Hãy tìm bố cục của bài Tiến sĩ giấy và trả lời câu hỏi: Bài thơ được viết theo thể thơ gì? Hãy chỉ ra những dấu hiệu của thể thơ đó.
c) Phân tích ý nghĩa trào phúng của nghệ thuật sử dụng phép đối, nghệ thuật sử dụng ngôn từ ở hai câu thực và hai câu luận của bài thơ.
d) Tại sao lại có thể nói bên cạnh nội dung trào phúng xã hội, bài thơ còn toát ra ý vị tự trào (lấy chính mình làm đối tượng trào phúng)?
e) Bài thơ gợi cho em những suy nghĩ gì về mối tương quan giữa cái danh (danh hiệu, chức danh,...) và cái thực (thực chất, bản chất, năng lực) của con người trong cuộc sống và trong học tập?
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản và thực hiện yêu cầu
Lời giải chi tiết:
a) Nội dung bài thơ và giai đoạn lịch sử mà Nguyễn Khuyến viết bài thơ: Qua việc miêu tả hình nộm ông tiến sĩ giấy (ông nghè tháng Tám, một thứ đồ chơi cho trẻ em vào dịp tết Trung thu hằng năm ở Việt Nam thời xưa), Nguyễn Khuyến đã phê phán thực trạng hư danh của những kẻ mang danh đỗ đạt cao nhưng thực chất lại rỗng tuếch trong bối cảnh khoa cử ở thời kì đầu của chế độ thực dân, phong kiến; cảm thán cho tình trạng bi thảm của nền thực học nước nhà.
Bài thơ được viết vào giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, sau khi thực dân Pháp đánh chiếm toàn bộ Việt Nam, dựng nên chính quyền bù nhìn, thực hiện chính sách xây dựng thuộc địa. Trong tình trạng lộn xộn đó, nền khoa cử Việt Nam xuống dốc trầm trọng, tệ mua quan, bán tước phổ biến, nhiều kẻ không có thực tài do nhiều nguyên nhân mà đỗ đạt, leo lên các bậc thang danh vọng. Nguyễn Khuyến đau xót trước tình cảnh đó, đã châm biếm biểu tượng tiêu biểu nhất của nền khoa cử khi ấy: ông tiến sĩ qua hình tượng tiến sĩ giấy.
b) Bài Tiến sĩ giấy được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, có bố cục hai câu một tạo thành các phần: đề, thực, luận, kết. Nhưng để tập trung cho việc tìm hiểu cụ thể nội dung bài thơ này, có thể chia bố cục tác phẩm thành ba phần: 1) Hai câu đề; 2) Hai câu thực và hai câu luận; 3) Hai câu kết.
c)
- Việc sử dụng triệt để các phép đối trong hai câu thực và hai câu luận có ý nghĩa quan trọng với mục đích làm nổi bật nội dung trào phúng của tác phẩm.
+ Trong hai câu thực và hai câu luận, danh từ câu trên đối với danh từ câu dưới, động từ đối với động từ, tính từ đối với tính từ,...
+ Với cách sử dụng từ mang ý nghĩa tương phản (mảnh giấy – thần giáp bảng, nét son - mặt văn khôi) ở hai câu thực, tác giả đã làm sáng tỏ được thực chất hèn kém của những ông tiến sĩ bằng xương, bằng thịt thời tác giả sống. Danh phận những ông nghè ấy hoá ra không phải được tạo dựng bằng thực tài, thực học, ngược lại, được cố kết nên bởi những thứ phù phiếm, hình thức tử bên ngoài.
- Việc sử dụng triệt để các phép đối đã tạo ra những hình ảnh tương phản trái ngược nhau. Các hình ảnh tương phản này không chỉ tạo nên cái hải, cái đáng cười. mà còn tạo cho người đọc cảm giác phẫn nộ, nhục nhã, buồn đau khi những hình ảnh trang nghiêm trong truyền thông nay đã trở nên thảm hại, đáng cười trước sự nhố nhăng của xã hội thực dân, phong kiến ở thời kì đầu. Các câu thực, luận đã thể hiện sự tương phản gay gắt giữa truyền thống đẹp đẽ, tôn nghiêm với sự lộn xộn, kệch cỡm, xô bồ của hiện tại.
- Ngôn từ được sử dụng ở đây khá độc đáo: ngôn ngữ đời thường, kể cả khấu ngữ, được sử dụng một cách linh hoạt. Trật tự từ trong hai câu thực được đảo lộn, các từ gây ấn tượng như “mảnh giấy”, “nét son”, “tấm thân”, “cái giá khoa danh” được đưa lên đầu câu để nhấn mạnh sự bệ rạc, hình thức, giả dối của biểu tượng thời đại.
d) Bên cạnh giá trị trào phúng, phê phán, thậm chí hạ bệ thần tượng thuộc loại danh giá nhất của xã hội thực dân, phong kiến thời Nguyễn Khuyến, có thể nói bài thơ Tiến sĩ giấy còn mang ý vị tự trào.
- Bản thân Nguyễn Khuyến cũng là một ông nghè nhưng ông không giống những kẻ hữu danh vô thực mà ông đã phê phán. Nguyễn Khuyến đỗ đầu ba kì thi (Hương, Hội, Đình), được vua ban hai chữ “Tam nguyên” (đỗ đầu ba kì thi), là người thực tài.
- Là người thực tài và là một trí thức yêu nước nhưng Nguyễn Khuyến luôn cảm thấy bất lực trước thực trạng đất nước, khi tài năng nặng về sách vở, thi lễ của ông trở nên vô dụng, không giúp ích gì cho thời cuộc, khi đất nước đã rơi vào tay ngoại xâm, triều đình trở thành tay sai cho giặc, khoa cử trở thành nơi đào tạo kẻ thừa hành cho chính phủ thuộc địa, không còn thực chất như xưa.
-Vì vậy, trong hình ảnh của ông tiến sĩ giấy có cả hình bóng của cụ Tam nguyên Nguyễn Khuyến. Vị khôi nguyên tam khoa thấy mình là con người thừa, con người vô tích sự. Do đó, hình tượng tiến sĩ giấy còn có thêm ý vị bị thương, bi kịch, tự trào. Trào phúng ở đây tưởng chỉ hướng ngoại mà thực ra còn hướng nội, hình tượng; tiến sĩ giấy tưởng rất xa lạ mà lại có nét gần gũi.
e) Mối tương quan giữa cái danh và cái thực trong cuộc sống và trong học tập: Trong cuộc sống, cái danh của một con người (ví dụ, học vị: cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ; chức danh: hiệu trưởng, giám đốc một cơ quan, viện trưởng một viện nghiên cứu khoa học,...) cần phải xứng đáng, phù hợp với cái thực mà họ có được (cử nhân phải tốt nghiệp trình độ đại học, có thể làm tốt nghề nghiệp đã được đào tạo; thạc sĩ, tiến sĩ phải trải qua quá trình học sau đại học, bảo vệ thành công luận văn, luận án, có tri thức và cách làm việc ở trình độ cao hơn cử nhân; giám đốc một xí nghiệp sản xuất phải am hiểu sâu sắc công việc chuyên môn mà mình đảm nhiệm, có năng lực quản lí, điều hành, đưa xí nghiệp phát triển phù hợp với sự tiến bộ của khoa học, kĩ thuật;...).
Nhưng trong thực tế, vẫn có một số trường hợp, giữa danh và thực là một khoảng cách lớn. Có những người mang những cái danh rất lớn nhưng thực ra lại không có kiến thức về lĩnh vực mình được đảm nhiệm, do làm trái ngành, trái nghề; do không được đào tạo; do tiêu cực mà có được bằng cấp, được đảm nhiệm những chức vụ, vị trí không tương xứng. Những hiện tượng đó sẽ cản trở sự phát triển, ổn định của xã hội, tiếp tục gây nên những việc tiêu cực.
- Để giảm bớt các hiện tượng trên, xã hội cần phải có những chuẩn mực chặt chẽ hơn, dựa trên pháp luật, đề cao dân chủ, dựa trên tiêu chuẩn thực học, thực việc để lựa chọn và đánh giá con người.