Câu 1
Bài tập 1 (trang 53, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Bố cục bài thơ gồm … phần
Cụ thể:
Phương pháp giải:
Đọc văn bản để xác định bố cục.
Lời giải chi tiết:
Bố cục bài thơ gồm 4 phần. Đó là đề - thực - luận - kết.
- Đề (2 câu đầu): Giới thiệu chung về kì thi Hương được tổ chức năm 1897
- Thực (2 câu tiếp): Hiện thực hình ảnh các thí sinh khi tham gia thi
- Luận (2 câu tiếp): Thể hiện những người nước ngoài 'phủ bóng' lên bối cảnh của kì thi
- Kết (2 câu cuối): Nhấn mạnh về tình trạng bi hài của kì thi không chỉ riêng về mặt thực dân Pháp đô hộ mà còn về mặt quốc gia nói chung
Câu 2
Bài tập 2 (trang 53, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Hai câu đề của bài thơ đã cung cấp một số thông tin đáng chú ý về chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX:
Phương pháp giải:
Đọc nội dung hai câu thơ đề để trả lời.
Lời giải chi tiết:
Hai câu đề của bài thơ đã cung cấp một số thông tin đáng chú ý về chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX: Sự hỗn loạn, không trách nhiệm, làm mất hết vẻ trang nghiêm của kỳ thi quốc gia khi để thí sinh Hà Nội xuống Nam Định 'thi lẫn' với nhau: 'Trường Nam thi lẫn với trường Hà'.
Câu 3
Bài tập 3 (trang 53, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Tác giả đã sử dụng biện pháp từ tự … trong cách diễn đạt “Lôi thôi thí sinh vai đeo lỗ” và “Ấm ấm quan trường miệng thét loa”.
Tác dụng của việc sử dụng biện pháp từ tự này trong việc tái hiện hình ảnh các thí sinh và quan viên người Việt:
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức về biện pháp từ tự và bối cảnh văn học để trả lời.
Lời giải chi tiết:
Tác giả đã sử dụng biện pháp từ tự đảo ngữ trong cách diễn đạt “Lôi thôi thí sinh vai đeo lỗ” và “Ấm ấm quan trường miệng thét loa”.
Tác dụng của việc sử dụng biện pháp từ tự này trong việc tái hiện hình ảnh các thí sinh và quan viên người Việt: giúp nhấn mạnh hình ảnh lôi thôi, nhếch nhác của các thí sinh để thu hút sự chú ý của người đọc; đồng thời thể hiện được những thái độ phong phú, khinh ghét của tác giả dành cho quan trường.
Câu 4
Bài tập 4 (trang 53, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Tác dụng của thuật pháp đối được tác giả sử dụng trong hai câu thực của bài thơ:…
Phương pháp giải:
Xác định phép đối và phân tích tác dụng
Lời giải chi tiết:
Cách đảo trật tự cú pháp: “Lôi thôi sĩ tử”, “ậm oẹ quan trường” kết hợp với các từ giàu hình ảnh: lôi thôi, đeo lọ cùng với những từ chỉ âm thanh: ậm oẹ, thét loa làm cho quang cảnh thi trở nên nhốn nháo, ô hợp, mất đi vẻ trang nghiêm của một kì thi do quốc gia tổ chức. Hơn thế, sĩ tử thì lôi thôi lếch thếch mất hết vẻ nho nhã, thư sinh. Quan trường không còn quyền uy, mực thước, trang trọng như trước mà như nhân vật tuồng hề “ậm oẹ, thét loa”. Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.
Câu 5
Bài tập 5 (trang 53, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Tiếng cười trào phúng được thể hiện qua việc miêu tả, nhấn mạnh hình ảnh “quan sứ” với “cờ kéo rộp trời”, “mụ đầm” với “váy lê quét đất” trong hai câu luận của bài thơ:…
Phương pháp giải:
Đọc kỹ các câu thơ có hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm để chỉ ra tiếng cười trào phúng
Lời giải chi tiết:
Sự có mặt của quan sứ và mụ đầm đáng lẽ phải làm cho quang cảnh trường thi trang nghiêm hơn. Song trái lại, sự hiện diện của chính quyền thực dân lúc này càng tăng thêm sự chua chát. Quyết định số phận của các sĩ tử là một kẻ “ngoại lai” không biết gì về Nho học. Nơi cửa Khổng sân Trình là nơi mặc sức, tự nhiên lê váy của mụ đầm, lố lăng của quan sứ. “Váy lê quét đất” đối với “Lọng cắm rợp trời” (còn làm nhục quốc thể) chao ôi thật chua chát
Câu 6
Bài tập 6 (trang 54, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Đối tượng mà tác giả muốn ám chỉ khi nhắc đến “nhân tài đất Bắc” là…
Thái độ của tác giả thể hiện qua lời nhắn nhủ tới “nhân tài đất Bắc”:…
Phương pháp giải:
Đọc kỹ tác phẩm để trả lời.
Lời giải chi tiết:
Đối tượng mà tác giả muốn ám chỉ khi nhắc đến “nhân tài đất Bắc” là: quan trường/ sĩ tử/ những người tài giỏi khác trong thời đại ấy/ mọi người Việt Nam có lương tri, biết trăn trở trước tình cảm của dân tộc.
Thái độ của tác giả thể hiện qua lời nhắn nhủ tới “nhân tài đất Bắc”: Vừa chế giễu (giễu tài năng của “nhân tài đất Bắc” rồi, giễu những người đã quay lưng lại với tình cảm của dân tộc) vừa là lời tâm sự, nhắn nhủ xót xa (xót xa cho vận mệnh nước nhà) của tác giả.
Câu 7
Bài tập 7 (trang 54, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Trong bài thơ, tác giả nhắc đến nhiều nhân vật: các sĩ tử, quan trường, quan sứ, mụ đầm. Trong đó, nhân vật để lại ấn tượng cho em nhiều nhất là…
Lí do:…
Phương pháp giải:
Trình bày về nhân vật mà em ấn tượng và lý giải nguyên nhân
Lời giải chi tiết:
Trong bài thơ, tác giả nhắc đến nhiều nhân vật: các sĩ tử, quan trường, quan sứ, mụ đầm. Trong đó, nhân vật để lại ấn tượng cho em nhiều nhất là những người sĩ tử
Lí do: tác giả đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch trong khi đáng ra họ phải là những thư sinh nho nhã, thanh lịch.
Câu 8
Bài tập 8 (trang 54, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Cảm xúc chỉ đạo của tác giả trong bài thơ:…
Phương pháp giải:
Hệ thống lại nội dung để xác định cảm xúc chủ đạo.
Lời giải chi tiết:
Cảm xúc chủ đạo là tiếng cười trào phúng luôn hòa cùng tiếng khóc đau xót - một cảm xúc đặc biệt thường gặp trong các sáng tác của ông.
Câu 9
Bài tập 9 (trang 54, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Phương pháp giải:
Chọn ra chi tiết trào phúng mà em ấn tượng và viết đoạn văn phân tích.
Lời giải chi tiết:
Hai câu luận tô đậm bức tranh “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” bằng hai bức biếm hoạ về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó Toàn quyền Pôn Đu-me và vợ chồng tên Công sứ Nam Định Lơ Noóc-măng đã đến dự. Các ông cử tân khoa, các ông tú mền, tú kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lạy mụ đầm “váy lê quét đất”, “trên ghế... ngoi đít vịt”. Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kỳ long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ “mụ đầm ra” mụ đầm đến với “váy lê quét đất” mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã.