Câu 1
Bài tập 1 (trang 57, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Bài thơ Lai Tân thuộc thể thơ:
Dấu hiệu để nhận biết thể thơ:
Phương pháp giải:
Dựa vào đặc điểm thể loại
Lời giải chi tiết:
Bài thơ Lai Tân thuộc thể thơ: tứ tuyệt Đường luật
Dấu hiệu để nhận biết thể thơ: bài thơ có bốn câu, mỗi câu bảy chữ; có luật (nguyên tắc luật bằng, bài thơ diễn luật trắc); có niêm (niêm giữ câu 2 và câu 3); gieo vần chân ở các câu chẵn; nhịp câu thơ được ngắt chẵn trước, lẻ sau (2/2/3 hoặc 4/3)
Câu 2
Bài tập 2 (trang 58, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Các công việc thường làm của ban trưởng nhà giam và cảnh trưởng nhằm mục đích:
Căn cứ để khẳng định như vậy:
Phương pháp giải:
Đọc kỹ bài thơ
Lời giải chi tiết:
Các công việc thường làm của ban trưởng nhà giam và cảnh trưởng nhằm mục đích: lợi ích cá nhân
Căn cứ để khẳng định như vậy: bản phiên âm của bài thơ 'thiên thiên đố', 'giải phạm tiền'.
Câu 3
Bài tập 3 (trang 58, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Sau khi phê phán những thói xấu của ban trưởng và cảnh trưởng, tác giả đã mô tả: Chóng đèn, huyện trưởng làm công việc. Qua câu thơ đó, liệu tác giả có muốn khen ngợi huyện trưởng vì đã làm việc chăm chỉ không?
Chọn: Đúng ( ) Sai ( )
Theo bạn, công việc mà huyện trưởng “chóng đèn” thực hiện là…
Phương pháp giải:
Đọc kỹ văn bản để trả lời câu hỏi.
Lời giải chi tiết:
Sau khi phê phán những thói xấu của ban trưởng và cảnh trưởng, tác giả đã mô tả: Chóng đèn, huyện trưởng làm công việc. Qua câu thơ đó, liệu tác giả có muốn khen ngợi huyện trưởng vì đã làm việc chăm chỉ không?
Chọn: Đúng ( ) Sai (X)
Theo bạn, công việc mà huyện trưởng “chóng đèn” thực hiện là để làm việc bí mật - buôn thuốc phiện.
Câu 4
Bài tập 4 (trang 58, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Âm nhạc của tiếng cười trong bài thơ Lai Tân thể hiện đa dạng. Sự khác biệt về âm điệu của câu thứ ba so với hai câu đầu:
Phương pháp giải:
Đọc kỹ văn bản để trả lời câu hỏi.
Lời giải chi tiết:
Âm nhạc của tiếng cười trong bài thơ Lai Tân thể hiện đa dạng. Sự khác biệt về âm điệu của câu thứ ba so với hai câu đầu:
- Hai câu đầu: tiếng cười đầy căng thẳng (từ ngữ thô mộc, suồng sã)
- Câu thứ ba: tiếng cười mỉa mai – châm biếm (tạo ra yếu tố vô lý hoặc thiếu logic, đảo lộn trật tự thông thường; lời thơ tựa như khen ngợi huyện trưởng chăm chỉ làm công việc đến tận đêm khuya, ngược hẳn với hai “cán bộ nhà nước” trong hai câu thơ trước)
Câu 5
Bài tập 5 (trang 58, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Các nhân vật trong bài thơ Lai Tân đều thuộc thành phần… trong xã hội. Mục đích của tác giả khi hướng tiếng cười mỉa mai vào nhóm đối tượng này:
Phương pháp giải:
Đọc kỹ văn bản để trả lời câu hỏi.
Lời giải chi tiết:
Các nhân vật trong bài thơ Lai Tân đều thuộc thành phần công chức, viên chức của bộ máy chính quyền, những người thuộc tầng lớp thống trị trong xã hội. Mục đích của tác giả khi hướng tiếng cười mỉa mai vào nhóm đối tượng này: đả kích, tố cáo tình trạng mục nát, “nhà đốt từ nóc” mà tác giả chứng kiến ở Lai Tân thời bấy giờ.
Câu 6
Bài tập 6 (trang 58, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Theo bạn, phần kết có mâu thuẫn với nội dung của các câu thơ trước không?
Cho: Có (X) Không ( )
Căn cứ để khẳng định như vậy:…
Phương pháp giải:
Đọc kỹ văn bản để trả lời câu hỏi.
Lời giải chi tiết:
Theo bạn, phần kết có mâu thuẫn với nội dung của các câu thơ trước không?
Cho: Có (X) Không ( )
Căn cứ để khẳng định như vậy:
- Câu thứ tư (câu kết) đã rút ra một cách khéo léo, đầy ý vị: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. “Thái bình” trong khi ban trưởng vi phạm pháp luật (đánh bạc), cảnh trưởng chỉ tìm cách kiếm lợi (ăn chơi), thì chỉ có thể là thái bình giả tạo. Khi người đọc nhận ra mâu thuẫn giữa vẻ bề ngoài (thái bình) với thực chất (mục ruỗng, thối nát) của xã hội cũng là lúc tiếng cười mỉa mai được thể hiện.
- Hai từ “thái bình” cuối văn bản vừa miêu tả được vẻ bề ngoài yên bình, tốt đẹp giả tạo, vừa là cách diễn đạt ngược để tạo tiếng cười mỉa mai, châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay.
Câu 7
Bài tập 7 (trang 59, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Viết đoạn văn (khoảng 7 - 9 câu) làm rõ tính châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay của bài thơ Lai Tân qua lời nhận xét: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ văn bản và dựa vào lời nhận xét để viết đoạn văn theo yêu cầu.
Lời giải chi tiết:
“Lai Tân' là một bài thơ nhằm phê phán thực tế xấu xa, thối nát của xã hội Trung Quốc thời kỳ đóng cửa. Đồng thời, đó cũng là tiếng cười châm biếm của nhà thơ về những “con người' trong đám quan lại ở Lai Tân mà nhà thơ chứng kiến. Câu thơ đặt ra một cách trang trọng nhưng cũng không kém phần lạc quan: Lai Tân với hệ thống quan lại và chính quyền như vậy, mà vẫn! “thái bình như xưa'. Sự mỉa mai, châm biếm của tác giả ở “Ngục trung nhật kí” là rất rõ ràng! Tính “hướng nội' của “Nhật kí trong tù” được thể hiện rõ ràng về mặt đặc điểm thể loại, nó không chỉ là nhật kí mà còn là thơ, chủ yếu là thơ trữ tình, tác giả viết cho bản thân mình, để suy ngẫm, để chiêm nghiệm, 'Vừa suy nghĩ vừa chờ đợi đến ngày tự do'. Vì thế, bài thơ “Lai Tân' mặc dù chỉ ra ba hình mẫu về Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng là tiêu biểu cho cái xấu xa, đồi bại của đám quan lại chính quyền Tưởng Giới Thạch lúc ấy, nhưng chỉ để mỉa mai, châm biếm cái nghịch lý, cảnh lạ mà nhà thơ đã và đang phải đối mặt và chịu đựng.