Câu 1
Câu 1 (trang 42, SBT Ngữ văn 11, tập hai):
Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác Hàng Thịt cho thấy xung đột nào trong Hồn Trương Ba? Em có nhận xét gì về sự thay đổi thái độ của Hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại với Xác Hàng Thịt? Ý nghĩa của sự thay đổi này là gì?
Phương pháp giải:
Cần tập trung vào những chi tiết liên quan đến thái độ của Hồng Trương Ba thông qua ngôn ngữ (đại từ, độ dài của lời thoại, kiểu câu…) và đặc biệt là các chỉ dẫn sân khấu về thái độ của nhân vật để thấy được sự thay đổi của Hồn Trương Ba.
Lời giải chi tiết:
Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác Hàng Thịt trong Hồn Trương Ba đã cho thấy những xung đột như:
+ Lời đối thoại: 'tôi đã chán cái chỗ ở không phải của tôi… ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát' đã cho thấy sự chán ngất cảnh phải ở trong thân xác người khác. Đó chính là bi kịch bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.
+ Linh hồn và thể xác đều là hai thứ rất quan trọng và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bất chấp sự phủ nhận yếu ớt của phần hồn, phần xác đã hùng hồn đưa ra những chứng cứ cho thấy hồn Trương Ba cũng tha hóa theo nhu cầu của hắn.
→ Qua đây có thể thấy sự thay đổi thái độ của Hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại với Xác Hàng Thịt từ hùng hồn, kiên quyết đã trở nên yếu ớt hơn sau khi nghe phần xác đưa ra minh chứng.
Câu 2
Câu 2 (trang 42, SBT Ngữ văn 11, tập hai):
Đế Thích đã dùng những lập luận nào để thuyết phục Hồn Trương Ba sống tiếp? Vì sao Lưu Quang Vũ đã để cho một nhân vật của Thiên Đình đưa ra những lập luận trên?
Đọc kĩ văn bản, các lời thoại của Đế Thích khi thuyết phục Hồn Trương Ba sống tiếp để có thể phân tích, lập luận nhằm trả lời câu hỏi đề bài đặt ra.
Lời giải chi tiết:
Các lập luận của Đế Thích lần lượt như sau:
- Tất cả mọi người đều không thể là mình toàn vẹn, kể cả Ngọc Hoàng.
- Đề nghị Hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tí.
- Việc Hồn Trương Ba chết là một nhầm lẫn của Thiên Đình, vì thế cần phải sửa sai, ông phải sống, dù bất cứ giá nào.
Lập luận có sức thuyết phục cần có lô gích, cần có điểm tựa từ thực tế, cần dựa trên những tiền đề có hiệu lực phổ quát. Đối chiếu với lập luận của Đế Thích. Theo em, những lập luận này của Đế Thích chưa thực sự mang tính thuyết phục. Điều quan trọng nhất mà Đế Thích đưa ra để thuyết phục Hồn Trương Ba tiếp tục sống trong Xác Hàng Thịt là: Tất cả mọi người đều không thể là mình toàn vẹn, kể cả Ngọc Hoàng.
Để cho một nhân vật của Thiên Đình đưa ra những lập luận trên, Lưu Quang Vũ cho thấy sự thỏa hiệp với những thói tật và suy thoái đã được cho phép bởi ngay cả những người cầm cân nảy mực; thậm chí ngay cả những bậc thần thánh mà con người ngưỡng mộ cũng đã trở nên tha hóa và giả dối.
Câu 3
Câu 3 (trang 42, SBT Ngữ văn 11, tập hai):
Suy nghĩ của em về những lập luận sau của Xác Hàng Thịt:
“Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ? Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thểm làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân,... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi…Khi muốn hành hạ tâm hồn con người, người ta xúc phạm thể xác… Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác…Mỗi bữa tôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ!”
Phương pháp giải:
Cần thấy được cái nhìn coi thường của Hồn Trương Ba trước đó với Xác Hàng Thịt xem đó chỉ là một tồn tại âm u, đui mù; chỉ là bề ngoài, chỉ là bề ngoài, chỉ có những cảm xúc thấp kém, thú tính.
Lời giải chi tiết:
Lập luận của Xác Hàng Thịt ở đây muốn chứng minh với Hồn Trương Ba:
- Xác thịt cũng có công dụng, nhờ nó mà con người có cảm giác, có cảm nhận về thế giới.
- Chất vấn về việc con người bỏ bê thân xác, từ đó cho thấy những nhu cầu của thân xác có quyền được tôn trọng, được lắng nghe, được chăm sóc.
Những lập luận này cho thấy sự phân chia khinh trọng giữa xác và hồn không còn đứng vững. Nếu không quan tâm đến xác thì hồn cũng mất đi chỗ tồn tại, mất đi sự tôn nghiêm, cao cả mà người ta vẫn gán cho linh hồn.
Câu 4
Câu 4 (trang 43, SBT Ngữ văn 11, tập hai):
Hồn Trương Ba cho rằng: Hồn Trương Ba - da hàng thịt là “vật quái gở” vì nó là một sự tồn tại giả dối, không trọn vẹn, không hòa hợp. Cái tồn tại này khiến cả Hồn Trương Ba và Xác Hàng Thịt đều không thể là chính mình và vì thế không có ai là tồn tại đích thực.
Tồn tại này khiến con người phải giả dối, phải đóng kịch để có thể tồn tại hợp pháp. Hơn nữa, mọi tồn tại như thế càng khiến cho những phẩm chất như lòng trung hiếu, lòng trung thực lên mặt, có thêm cơ hội để bày tỏ; càng khiến con người gặp thêm nhiều khó khăn, khổ sở và xa lánh người thân, bạn bè xung quanh.
Câu 5
Câu 5 (trang 43, SBT Ngữ văn 11, tập hai):
Trong truyện cổ tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Đế Thích cho hồn Trương Ba nhập vào anh hàng thịt để sống lại. Vợ anh hàng thịt kiện lên quan, quan xử cho vợ Trương Ba thắng kiện vì người mới sống dậy rất giỏi đánh cờ, không biết mổ lợn. Lưu Quang Vũ không chọn cách kết thúc như truyện cổ tích để gửi gắm những thông điệp nhân sinh mới của thời đại. Việc so sánh với cốt truyện cổ tích vì thế là cần thiết.
Cách kết thúc của truyện cổ tích dựa trên một giả thuyết phổ biến của dân gian: giữa thân (môi trường tồn tại của linh hồn) và linh hồn là hoàn toàn biệt lập. Linh hồn có thể trú ngụ ở bất kì thân xác nào mà vẫn luôn là chính mình. Trong vở kịch của Lưu Quang Vũ, mọi chuyện đã khác: Hồn Trương Ba không thể làm vườn như xưa, nước cờ cũng khác trước, nhưng lại mổ lợn rất thành thạo và thích những món ăn quen thuộc của anh hàng thịt. Điều này chất vấn cách hiểu truyền thống về mối quan hệ giữa hồn và xác. Linh hồn cần một thân xác cụ thể để tồn tại, nhưng thân xác cũng có sự tồn tại độc lập của nó.
Câu 6
Câu 6 (trang 43, SBT Ngữ văn 11, tập hai):
Triết lí nhân sinh của Lưu Quang Vũ trong trích đoạn Tôi muốn được là tôi toàn vẹn là điều quý giá nhất là được sống là chính mình. Sự sống trọn vẹn khi có sự hài hòa giữa phần hồn và phần xác. Con người để có cuộc sống tốt đẹp hơn phải biết đấu tranh với nghịch cảnh, bảo vệ nhân phẩm và phẩm chất tốt đẹp của mình.
Câu 7
Câu 7 (trang 43, SBT Ngữ văn 11, tập hai):
Nhan đề Tôi muốn được là tôi toàn vẹn của người soạn SGK phản ánh chính xác vấn đề trung tâm của đoạn trích. Nó thể hiện sự khát khao được sống thành người thật sự, không phải giả tạo hay che đậy.