Câu hỏi 1
Câu hỏi 1 (trang 23 VBT Ngữ văn 9, tập 1)
Tìm cấu trúc của truyện
Phương pháp giải:
- Đọc lại văn bản, trả lời ý thứ nhất bằng cách khoanh tròn chữ cái đứng trước ý trả lời đúng.
- Sau đó tóm tắt nội dung từng phần.
Lời giải chi tiết:
- Văn bản được chia thành: Ba phần
- Phạm vi và nội dung:
+ Phần 1 (từ đầu đến 'như đối với cha mẹ đẻ mình'): Cuộc sống của Vũ Nương sau khi được gả cho Trương Sinh cho đến trước khi Trương Sinh trở về.
+ Phần 2 (tiếp theo đến 'nhưng việc trót đã qua rồi'): Sự oan khuất của Vũ Nương.
+ Phần 3 (đoạn còn lại): Sự giải oan cho Vũ Nương.
Câu hỏi 2
Câu hỏi 2 (trang 23 VBT Ngữ văn 9, tập 1)
Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong tình huống nào? Trong mỗi tình huống, Vũ Nương thể hiện những phẩm chất gì?
Phương pháp giải:
Chú ý đến các tình huống:
- Ở nhà
- Khi tiễn chồng đi
- Khi xa chồng
- Khi chồng ghen tuông trở về
=> Nêu ra những phẩm chất tốt đẹp của một phụ nữ nhân hậu.
Lời giải chi tiết:
Nhân vật Vũ Nương được mô tả trong các tình huống khác nhau:
- Trong cuộc sống vợ chồng: “giữ gìn khuôn mặt”.
- Khi chia tay chồng đi lính: nàng không mong chồng “mang cơm hộp chưa bao giờ mặc vào áo quân phục... mong chờ ngày chồng về an toàn.”
=> Một người vợ hiền lành, nhân từ, yêu chồng sâu sắc.
- Khi xa chồng: Vũ Nương là người vợ chung thuỷ, con dâu hiền thảo, mẹ hiền lành.
- Khi bị chồng nghi oan:
+ Được thể hiện tình cảm của mình để giữ gìn hạnh phúc gia đình.
+ Tự cố gắng để bảo vệ danh dự -> tự trọng.
Câu hỏi 3
Câu hỏi 3 (trang 24 VBT Ngữ văn 9, tập 1)
Tại sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất? Từ đó, bạn hiểu được điều gì về cuộc sống của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?
Phương pháp giải:
Suy luận về lý do Vũ Nương phải chịu oan khuất. Sau đó, bạn sẽ nhận ra điều gì về cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Lời giải chi tiết:
- Nguyên nhân gián tiếp:
+ Chiến tranh trong xã hội phong kiến.
+ Xã hội phong kiến vô cùng bất công, chủ nghĩa nam chủ nghĩa.
- Nguyên nhân trực tiếp:
+ Do tính ghen tuông, sự áp đặt của Trương Sinh.
+ Bởi lời nói thiếu hiểu biết của Đản.
=> Cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bi kịch, bị đối xử không công bằng, bị bóc lột.
Câu hỏi 4
Câu hỏi 4 (trang 24 VBT Ngữ văn 9, tập 1)
Đánh giá cách phát triển cốt truyện, lời kể và đoạn hội thoại trong truyện?
Phương pháp giải:
- Tập trung vào những chi tiết về Trương Sinh không học và nghi ngờ. Khi Trương Sinh trở về, con trai nói có một người đàn ông khác ghé qua mỗi đêm. Trương Sinh ghen tuông, nhưng không nói rõ lý do. Sau khi vợ qua đời, sự thật vô tình được phơi bày: người đàn ông ấy chỉ là cái bóng.
- Xem xét lại các đoạn đối thoại (đặc biệt là giữa Trương Sinh và con trai), chỉ ra giá trị nghệ thuật của chúng.
Lời giải chi tiết:
- Trên nền cốt truyện đã có, tác giả sắp xếp lại một số chi tiết, thêm bớt hoặc tô sáng những chi tiết có tầm quan trọng, có tính quyết định đến quá trình phát triển của câu chuyện để tạo ra một cốt truyện mạch lạc, làm tăng thêm sự bi kịch và làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và sống động hơn.
- Truyện có nhiều phần đối thoại và mô tả của nhân vật, giúp tạo nên bức tranh sinh động của tâm trạng và tính cách của nhân vật.
Câu hỏi 5
Câu hỏi 5 (trang 25 VBT Ngữ văn 9, tập 1)
Tìm những yếu tố huyền ảo trong truyện. Sử dụng các yếu tố này trong một câu chuyện phổ biến, tác giả muốn thể hiện điều gì?
Phương pháp giải:
Chú ý đoạn nói về Phan Lang và Linh Phi cho đến cuối văn bản. Tìm ra các yếu tố huyền ảo. Những yếu tố này làm rõ quan điểm của tác giả về nhân vật Vũ Nương, về mong muốn hạnh phúc của cô, và về sự bất công trong xã hội phong kiến.
Lời giải chi tiết:
- Các yếu tố huyền ảo:
+ Phan Lang mơ thấy và thả một con rùa.
+ Phan Lang lạc vào hang rùa của Linh Phi, tham gia bữa tiệc và gặp Vũ Nương, người đã mất, rồi được người đại diện của Linh Phi dẫn ra thế giới thực.
+ Hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh tổ chức lễ giải oan cho cô ở bến Hoàng Giang rực rỡ, mơ hồ, sau đó “hình ảnh của cô bắt đầu mờ dần và biến mất.”.
- Ý nghĩa:
+ Hoàn thiện những phẩm chất đã có của nhân vật Vũ Nương.
+ Tạo ra một kết thúc đẹp đẽ cho câu chuyện, thể hiện ước mơ về công bằng của nhân dân, và khẳng định rằng không phải chốn thế gian là nơi phù hợp cho phụ nữ.